Trò Chơi Chết Chóc

Chương 14: Chương 14: Cuốn nhật ký




Dịch: Hạnh / Ảnh: Jas

Dịch Thư vừa dứt lời cô gái tóc ngắn đã bật cười thành tiếng: “Anh dọa mọi người làm gì? Dù trong này không có thức ăn nhưng vẫn còn nước. Cơ thể người chỉ cần có nước uống là có thể sống sót được hơn bảy ngày. Cho dù chúng ta có xui xẻo chọn sai liên tiếp thì nhiệm vụ này cũng không thể vượt quá sáu ngày.”

Người phụ nữ trung niên ngẩn ra, gương mặt bắt đầu trở nên khó coi: “Ý cô là chúng ta phải chịu đói tận sáu ngày? Tới lúc đó đến cử động còn khó, lấy đâu ra sức mà chơi trốn tìm? Hơn nữa... từ lúc đẻ ra đến khi bị ném vào chỗ quái quỷ này như bây giờ, tôi chưa bao giờ phải chịu đói dù chỉ một bữa!”

Cậu nhóc con nghe vậy đột nhiên phì cười, lè lưỡi làm mặt quỷ với người phụ nữ trung niên: “Bác đừng bi quan, chắc gì bác đã bị bỏ đói lâu vậy, nhỡ đâu ngày mai chưa gì đã chết luôn thì sao?”

Người phụ nữ tức đỏ cả mặt, sáu người còn lại không nhịn nổi mà bật cười.

Tần Niên lắc đầu nói: “Chúng ta sẽ không phải nhịn đói lâu tới vậy. Nếu thực sự không tìm được hung thủ, mỗi hôm đều có một người phải chết, cùng lắm tới ngày thứ sáu ta đều sẽ biết được kết quả nhiệm vụ lần này. Mà người sống được tới ngày thứ bảy lại nhất định phải chết, có tìm được đồ ăn hay không cũng không quan trọng.

Chí ít những người chết trong ba ngày đầu đều không phải lo tới cái ăn. Còn ba ngày sau đó... các người chắc mình sống được tới lúc ấy sao?”

Anh ta vừa nói xong, cô gái tóc ngắn đã lập tức gật đầu, nói tiếp: “Đúng vậy, việc chúng ta cần lo lúc này không phải làm đồ ăn mà là tìm ra hung thủ thật nhanh. Nếu chúng ta cùng nhau hợp sức tìm cho ra sát nhân, không chừng sáng mai thôi là mọi người đã có thể hoàn thành nhiệm vụ rồi.

Đương nhiên, ngoài sân có phòng bếp, còn có cả củi đốt. Nếu có ai muốn ăn thịt người chết thì cứ tự nhiên mà nấu.”

Quý bà trung niên liếc nhìn thi thể Nghiêm Tĩnh, rồi lại cảm thấy ghê tởm mà rời mắt đi.

“Vậy... tại sao lại nói nhiều nhất tới ngày thứ sáu tất cả sẽ đoán được kết quả nhiệm vụ? Không phải chúng ta có tổng cộng tám người sao?”

Giọng nói yếu ớt của cậu học sinh trung học vang lên, lộ ra vẻ mặt ngượng nghịu, tới bản thân mình cũng biết mình ngu ngốc.

Những người chơi khác đều chung một suy nghĩ: Sao nói đến thế rồi mà thằng nhóc này còn không hiểu?

Dịch Thư day trán, vừa thở dài nhè nhẹ vừa nói: “Chúng ta chỉ có tám người, theo như luật chơi, đương nhiên tới ngày thứ sáu là rõ kết quả nhiệm vụ.”

Cậu học sinh này là người mới Dịch Thư phụ trách, dù không nhất thiết phải giúp cậu ta hoàn thành nhiệm vụ nhưng ít ra vẫn phải có chút trách nhiệm.

Anh ta giải thích: “Giả dụ trường hợp xấu nhất xảy ra, mỗi hôm có ít nhất một người chơi phải chết, tới sáng ngày thứ sáu trước khi tổ chức bỏ phiếu, số người chơi đã chỉ còn lại ba người.

Nếu như ngày hôm đó hai người chơi tìm ra được hung thủ, trò chơi sẽ lập tức kết thúc.

Còn nếu có một kẻ ngốc bị hung thủ lừa gạt, cùng hung thủ bỏ phiếu cho người chơi còn lại, vậy ngày thứ sáu sẽ lại có một người nữa phải chết, vậy lần này chỉ còn lại hung thủ và người chơi cuối cùng.

Hôm sau chỉ cần hung thủ và người chơi tự bỏ phiếu cho nhau, kết quả sẽ là đồng số phiếu, vẫn coi như không bầu trúng hung thủ. Vậy người phải chết hôm đó chỉ có thể là người chơi cuối.”

Vậy nên mới nói tới ngày thứ sáu, kết quả nhiệm vụ đã rõ ràng, người chơi sống đến ngày thứ bảy nhất định phải chết.

Đương nhiên đây là tình huống xấu nhất có thể xảy ra, tất cả các người chơi đều ngu ngốc đến mừng ngày nào cũng chọn sai người.

Sau khi nghe Dịch Thư giải thích xong, cậu nam sinh trợn mắt há mồm tỉnh ngộ, liên tục gật đầu: “Hóa ra là như vậy, xin lỗi anh, tôi vốn hơi ngốc nghếch chậm hiểu.”

Cậu nhóc con khinh thường nói: “Ai bảo là anh hơi ngốc? Anh thậm chí còn không bằng cả học sinh lớp 7 như tôi!”

Cậu nam sinh cười gượng mấy tiếng, lại đột nhiên nghĩ ra chuyện gì bèn cất tiếng hỏi: “Nhưng nếu có ván chơi tất cả chúng ta đều không bị quỷ bắt được thì sao?”

Dịch Thư cười: “Cậu nghĩ có thể có chuyện đó sao? Trong căn nhà này có bao nhiêu chỗ trốn được? Con ma nhỏ kia có ngốc đến đâu cũng không tới mức tìm không ra nổi một người. Hơn nữa chẳng lẽ hung thủ giấu mình trong đám người chơi lại không động tay động chân gì?”

Cậu nam sinh bĩu môi: “Có khi tên hung thủ cũng rất ngu ngốc.”

Dịch Thư chán tới mức chẳng buồn nói, chỉ nhún vai quay người bước qua thi thể nằm trên nền nhà, tiến ra khỏi phòng.

Người phụ nữ trung niên ho một tiếng, vỗ tay, nói: “Thôi được rồi, đừng chỉ ngồi đây bàn bạc nữa, hôm nay chúng ta có nhiều thời gian, giờ mọi người cùng lục soát căn nhà này trước đã, nhớ kỹ phải cẩn thận một chút, không được để lọt mất bất cứ dấu vết nào.”

Dư Tô cất bước ra khỏi cửa, định lên xem tình hình tầng hai.

Cô vừa đi vừa suy nghĩ, không biết trong số bảy người chơi còn lại đã có bao nhiêu người nghĩ tới việc này rồi?

Dư Tô không tin cái chết của Nghiêm Tĩnh là lựa chọn ngẫu nhiên, đương nhiên cũng không phải là do câu rủa của Tần Niên.

Cô cảm thấy “lựa chọn ngẫu nhiên” mà luật chơi đề cập đến chỉ là trò che mắt đánh lạc hướng.

Nhiệm vụ có nói rõ trong số các người chơi có một tên hung thủ, nhưng phải giết người thì mới được gọi là “hung thủ“.

Nhưng từ đầu tới giờ, có vẻ tên hung thủ kia chưa hề làm gì. Chi tiết này không hề phù hợp với mô tả của nhiệm vụ, vậy nên Dư Tô nghi ngờ tên hung thủ này thật ra đã giết người rồi, chỉ là không tự mình ra tay mà thôi.

Giống như trò chơi Ma sói từng rất thịnh hành một thời vậy, đám sói xuất hiện vào ban đêm cũng không hề động thủ giết người. Bọn chúng chỉ thương lượng, lựa chọn, rồi nói cho người quản trò mình muốn ai phải chết.

Rất có thể tên sát nhân cũng sử dụng cách này để giết người, nếu đã vậy hắn sẽ rất ít khi có những cử chỉ khác lạ, thay vào đó chỉ hành động giống hệt các người chơi khác là có thể che giấu tung tích của mình một cách hoàn hảo.

Mà lý do tên sát nhân này chọn Nghiêm Tĩnh là kẻ phải chết trong bốn người rất đơn giản, là vì trong bốn người thua cuộc ngày hôm qua, Nghiêm Tĩnh là người thông minh bình tĩnh nhất.

Đối với hung thủ mà nói, đương nhiên phải giết người thông minh khôn khéo trước tiên rồi.

Căn cứ vào mấy điều trên, dù nói các người chơi phải đồng tâm hiệp lực, nhưng Dư Tô lại không thể nói với mọi người phỏng đoán của mình. Nếu không người tiếp theo phải chết rất có thể sẽ là cô. Hơn nữa Dư Tô tin là người nghĩ tới những giả thiết này không chỉ có một mình cô.

Ví dụ như cậu học sinh trung học ban nãy. Rốt cuộc cậu ta ngu thật hay giả vờ ngớ ngẩn?

Dù các người chơi khác có thế nào đi chăng nữa thì việc Dư Tô cần làm bây giờ là cố gắng hết sức để trở thành người vô hình, chuyện gì nói ít đi được thì thôi không nói, tốt nhất là khiến mọi người đều quên đi sự tồn tại của cô.

Chỉ cần hung thủ nghĩ rằng cô là kẻ vô dụng, thì dù Dư Tô có lỡ thua trong màn chơi trốn tìm cũng vẫn còn thời gian xoay sở tiếp.

Dư Tô tiến vào căn phòng đầu tiên trên tầng hai, chỉ thấy trong phòng bày một chiếc giường đôi bằng gỗ, bên trái kê một cái tủ gỗ cực lớn, phía trên còn bày thêm một chiếc rương gỗ, bên trong là vài ba bộ quần áo.

Ngoài ra phía đối diện giường ngủ còn kê kệ gỗ, phía trên bày một chiếc TV đen trắng, ngoài ra không còn thêm bất cứ thứ gì khác.

Đứng bên ngưỡng cửa nhìn vào, Dư Tô thấy rõ được mọi ngóc ngách trong phòng, chỉ còn sót mỗi chiếc rương gỗ nọ.

Dư Tô cau mày, vừa suy nghĩ không biết mình nên trốn thế nào vừa tiến vào phòng, đưa tay mở chiếc rương gỗ nhỏ.

Không biết có thể tìm được manh mối hữu dụng gì không đây?

Chiếc rương gỗ được sơn màu đỏ nhưng lớp sơn bên ngoài đã tróc mất tương đối, thoạt nhìn rất cũ kỹ. Quần áo trong rương cũng có vẻ vô cùng xưa cũ, từ kiểu dáng đến chất liệu Dư Tô đều chỉ từng nhìn thấy trên TV.

Quần áo trong rương có đủ cả đồ nam đồ nữ, nhìn thoáng qua là biết đây là rương đựng đồ của một cặp vợ chồng.

Hôm qua trong căn phòng nơi cô trốn, Dư Tô cũng đã nhìn thấy vài món đồ trong tủ quần áo, cũng đều có đồ dành cho cả nam lẫn nữ, hơn nữa kiểu dáng cũng rất tương đồng với đống quần áo trong chiếc rương này.

Nếu vậy hẳn phải có hai cặp vợ chồng tuổi tác xấp xỉ nhau sống trong căn nhà này, hẳn phải là một cặp anh em trai cùng hai người vợ.

“Chị, chị đang tìm gì đấy?”

Giọng cậu bé trai vang lên từ sau lưng Dư Tô, làm gián đoạn mạch suy nghĩ của cô.

Dư Tô thả bộ quần áo trên tay xuống, quay người nhìn cậu nhóc, cười nói: “Tìm chỗ trốn thôi.”

Dù thằng nhóc này vẫn còn rất nhỏ, nhưng Dư Tô không thể đối xử với nó như một đứa trẻ được.

Cậu nhóc nghiêng đầu nói: “Hôm qua chị nấp ở đâu mà không bị bắt được thế? Hôm nay cứ trốn ở đúng chỗ ấy là được rồi mà.”

Dư Tô mỉm cười nhưng không đáp lời.

Cô biết mình không được buông lỏng cảnh giác với bất cứ ai, nhất là những người tuổi tác còn nhỏ nhưng biểu hiện lại xuất chúng.

Cậu nhóc bật cười, cong cong đôi mắt đen láy như hạt nhãn: “Em tên là Tiêu Hải, còn chị tên gì vậy?”

Dư Tô đáp: “Tôn Lý.”

“Là Tôn Lý trong Triệu Tiền Tôn Lý sao?” Tiêu Hải cười tới híp cả hai mắt: “Không phải lần sau chị định dùng tên Chu Ngô đấy chứ?” *

(*Trong Bách gia tính, các họ phổ biến của người Trung Quốc được ghép thành các câu bốn chữ, trong đó có hai câu Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương)

“Sống được tới màn tiếp theo thì hẵng nói, chị may mắn mèo mù vớ cá rán mới sống được tới nhiệm vụ thứ hai.” Gương mặt Dư Tô lộ rõ vẻ bất đắc dĩ, vừa bước về phía cửa ra vào vừa nói: “Chỗ này chị tìm xong rồi, giờ chị qua phòng khác trước đã.”

Tiêu Hải nghiêng người nhường đường cho Dư Tô, nói: “Nếu tìm ra manh mối hữu dụng chị nhất định phải nói với em trước tiên nhé.”

Dư Tô “ừ” một tiếng, vòng qua người cậu nhóc, bước ra khỏi phòng.

Cô vẫn luôn có cảm giác cậu nhóc nhìn qua chỉ mới mười một mười hai tuổi này không hề đơn giản. Nếu là đồng đội thì tốt, nhưng lỡ như thằng bé là hung thủ thì sao?

Gian phòng cách vách bày biện nhiều đồ đạc hơn một chút, còn có vài món đồ chơi của trẻ con, giường ngủ cũng thấp hơn hai chiếc giường đôi kia nhiều, trên chiếc bàn học be bé có bày vài cuốn sách giáo khoa và vở bài tập. Trông qua đã biết đây là phòng của trẻ con.

Dư Tô bước tới trước bàn học, cẩn thận quan sát kỹ, ngay sau đó đã lập tức ngẩn người. Đây không phải phòng của một đứa trẻ con, mà là tới hai đứa.

Cái tên đề trên bìa cuốn vở bài tập lần lượt là “Vu Dương” và “Vu Hân”, sách giáo khoa cũng gồm cả sách lớp một lẫn sách lớp hai.

Trông nét chữ của đứa bé tên Vu Hân có vẻ ngay ngắn chỉnh tề hơn, Dư Tô đoán Vu Hân là cô chị gái học lớp hai, còn Vu Dương là em trai cô bé.

Dư Tô ngay lập tức nhớ đến con ma nhỏ nọ, dù đêm qua cô không nhìn thấy rõ gương mặt nó, nhưng trông thân hình bé nhỏ kia chắc cũng chỉ mới sáu, bảy tuổi, vừa đúng tuổi vào lớp một.

Trò chơi sẽ không thiết lập một con quỷ không rõ thân thế nguồn gốc, không liên quan tới màn chơi, vậy nên nhóc quỷ nhỏ kia rất có thể chính là Vu Dương.

Còn về phần cô chị gái rốt cuộc có phải nhân vật quan trọng hay không, còn cần tìm thêm manh mối khác mới đoán ra được.

Dư Tô ngẩng đầu, nhìn chiếc cặp sách màu hồng phấn treo trên tường. Cô đưa tay lấy chiếc cặp xuống, bên trong ngoài sách vở ra còn một món đồ hấp dẫn sự chú ý của Dư Tô - một cuốn sổ khóa lại bằng khóa số.

Dư Tô không xa lạ gì với món đồ này, trước kia khi còn nhỏ, cô và mấy người bạn cùng tuổi đều từng có một quyển sổ như vậy, dùng để làm nhật ký ghi lại những bí mật riêng của mình.

Dư Tô có linh cảm trong này nhất định có chứa manh mối hữu dụng. Cô thò tay vào cặp sách, lấy chìa khóa cuốn nhật ký ra.

“Tìm thấy gì rồi vậy?”

Đúng lúc này, tiếng Tần Niên từ ngoài phòng bỗng chợt vọng vào.

Bàn tay đang nắm lấy cuốn nhật ký chợt buông lỏng, cô tiện tay cầm cuốn sách giáo khoa huơ huơ trước mặt Tần Niên: “Không có gì, nhìn thấy tấm bìa sách quen thuộc này nên tôi hơi xúc động.”

Tần Niên cười, bước từ ngoài cửa vào: “Đúng vậy, hôm qua tôi nhìn thấy đống sách này trên bàn lại chợt nhớ đến mấy chuyện hồi nhỏ. Chỉ là lúc đó còn chưa kịp mở cặp sách ra xem thử. Sao cô không bỏ chiếc cặp sách kia xuống, trong đó có thứ gì hả?”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.