Thuận Thiên Kiếm - Rồng Không Đuôi

Chương 114: Chương 114: Hồi mười lăm (4)




“ Đây là di vật sư phụ con gửi gắm. Ông bảo chắc chắn bác Khanh có cách giải trừ bí mật của nó. ”

“ Sư phụ con là?? ”

“ Quận Gió. ”

Tạng Cẩu và Phiêu Hương đồng thanh đáp. Nét tự hào thoáng vương trên gương mặt non nớt của chúng.

“ Ra là vua trộm. Không biết là thằng Lâm hay bác Quý. ”

Tuệ Tĩnh thiền sư nhấp một ngụm trà, rồi lim dim mắt. Dường như ông đang hồi tưởng lại một ký ức xa xôi nào.

Ba người hậu bối kiên nhẫn chờ, thậm chí không dám nhúc nhích vì sợ làm phiền ông thánh thuốc Nam.

Một lúc lâu sau, thiền sư mới thở dài;

“ Sư phụ con nhầm rồi. Nguyễn Phi Khanh cũng không biết ngọn ngành. Mà ngay cả ông, cũng chỉ biết được một phần câu chuyện mà thôi. ”

Ông nâng chiếc trống con lên, xoay nó trong tay mà ngắm nghía. Rồi, ngón tay mảnh khảnh như cành tre lướt qua từng hoa văn trên mặt trống.

“ Ngọn núi này là Tản Viên sơn thánh. Dòng sông này, mọi người chắc cũng đoán được, là Thuỷ tinh – đối thủ truyền kì của ông.

Đám tre này là biểu tượng của Phù Đổng thiên vương vạn chiến bất bại, gậy và nón tu lờ tượng trưng cho Chử đạo tổ.

Còn rùa vàng và gà trắng, là chuyện năm xưa thần Kim Quy diệt yêu tinh ở núi Thất Diệu, giúp vua An Dương Vương xây thành Cổ Loa. ”

Hồ Nguyên Trừng cau mày:

“ Đây đều là chuyện cổ dân gian, mang màu sắc truyền kì. Thiền sư xin thứ cho kẻ hậu sinh ngu dốt, nhưng Mạnh Nguyên không hiểu ý nghĩa của hình khắc này. ”

Tạng Cẩu và Phiêu Hương cũng nói:

“ Cổ tích thì chúng con vẫn nghe, nhưng có liên quan gì tới cái trống này chứ? Ông đừng nói là ông tổ chỉ khắc chơi cho đẹp thôi nhé. ”

Tuệ Tĩnh thiền sư cười, nói:

“ Nghe ông nói hết đã.

Chín vòng thành đất. Cổ Loa cửu trùng, Quỷ Long bất tử. Đây chính là hình dáng nguyên thuỷ của thành Cổ Loa huyền thoại. ”

“ Cổ Loa? Thành đất cổ ở Phong Khê nay chỉ còn ba vòng sót lại thôi. Mặc dù bố cục tinh vi, tứ phía nhiều cửa tử, song đâu có đến chín vòng?? ”

Hồ Nguyên Trừng nói.

“ Đúng. Cái trống đồng này tục truyền gọi là Chìa Khoá Loa thành, nghe đồn nó nắm giữ bí mật của sáu vòng thành mất tích.

Đây cũng là vật duy nhất ông tổ Khổng Lồ không tự sáng tạo ra, nên trong bát thần khí đất Nam mình mới không có tên của nó. ”

Ba người chết lặng mất một lúc lâu.

Những tưởng sẽ có thêm manh mối, nhưng càng nghe lại càng lạc vào mê võng.

Tuệ Tĩnh lại tiếp:

“ Hai đứa nhóc này hôm nay cứ ngủ sớm đi, ngày mai ông sẽ tìm cách dẫn vào Ngự Thư Phòng. ”

Nói đoạn, thiền sư quét mắt ngang căn phòng lớn một cái, hỏi:

“ Chẳng rõ Quý Ly đi đâu mà giờ này vẫn chưa thấy về? ”

Trên bàn gỗ chỉ có ba bộ chén đũa.

Tức là Hồ Quý Li vẫn còn chưa quay lại chỗ ở.

Hồ Nguyên Trừng đáp:

“ Minh thành tổ nói chuyện vơi gia phụ rất hợp, thế nên cho Mạnh Nguyên lui trước, hai người họ vào hoa viên hàn huyên tâm sự. ”

“ Không lí nào… ”

Ngay cả khi đã chào ba người rời cung, thiền sư Tuệ Tĩnh vẫn cứ vừa đi vừa lẩm bẩm mãi ba chữ này.

Ông nghĩ gì, chẳng ai hay.

Hoàng cung…

Trong thượng uyển nơi, đâu đâu cũng thấy hoa thơm cỏ lạ. Trong cơn gió lất phất ánh trăng, hương thơm ngào ngạt chốn nhân gian bung toả vào bóng tối nơi cung cấm.

Đêm về, tiếng sáo dế mèn đệm trên những mảnh trăng vụn vỡ tan tành vương đầy thảm cỏ. Sương đêm đọng lại trên con đường mòn trải đá, thấm đẫm trong từng kẽ hở.

Tiểu đình mái ngói cong cong đỏ ối, lan can cột kèo đều được làm bằng gỗ đàn hương lâu năm, quý giá còn hơn ngàn lượng vàng ròng. Mùi sương đêm trong trẻo quyện vào hương gỗ thoang thoảng, càng khiến rượu mạnh thêm nồng cay quyến rũ.

Trên một chiếc bàn đá bày mấy món đơn giản, hai chén sứ trắng. Cạnh bàn kê hai cái ghế con.

Trong đình có hai người đang ngồi đối ẩm.

Một mặc long bào, một vận thường phục.

Một đương tuổi tráng niên, một đã đến thời xa trời gần đất.

Chu Đệ nâng chén rượu lên, dốc cạn. Liệt tửu đổ xuống cổ họng, cay nồng và bỏng cháy, song lại khiến đầu óc người ta lâng lâng. Cái vị men cay tuý luý ấy có dùng muôn từ vạn chữ cũng không cách nào tả ra hết được.

Thế nên dẫu biết khi say rồi đầu sẽ đau nhức như búa bổ, thế nhân vẫn sẽ bất chấp nhào vào cụng hết chén nọ đến li kia.

Chu Đệ liếc xuống li rượu còn nguyên của Hồ Quý Li, hỏi:

“ Không uống sao?? ”

Xong tự rót cho mình một li đầy.

“ Thần là người đất man di quê mùa, không hiểu nổi cái tinh tế của liệt tửu thượng quốc. ”

“ Có người từng kể cho trẫm, là người An Nam các ngươi uống rượu Trung Hoa ta, vẫn thường chê là hăng như nước đái ngựa. Hồ Quý Li là vua An Nam, đúng là không quen uống thứ này. ”

“ Bệ hạ minh xét. Thần không có ý đó. ”

Chu Đệ thấy y nhún nhường mình, bèn cười khẩy. Mắt y vẫn híp chặt, chỉ lộ một kẽ hở ti hí.

Cái mí mắt tất nhiên không thể biểu cảm bằng đôi con ngươi.

Cái khe hẹp đó khiến thiên hạ vĩnh viễn không đoán được toàn bộ suy nghĩ trong đầu Chu Đệ.

“ Thiên hạ… thực ra cũng như chén rượu này vậy. Thứ men rượu ma quỷ tên thiên hạ này có thể chuốc say được cả thế gian, nhấn chìm thiên thiên vạn vạn trái tim anh hùng. Không biết, ngươi nghĩ sao?? ”

Hồ Quý Li nói:

“ Tội thần ngu dốt, không dám luận xằng hỏng mất ý cảnh cao thâm của bệ hạ. ”

Chu Đệ nhìn sang chỗ khác.

Câu chuyện li rượu cũng bị y lảng sang vấn đề khác.

“ Đêm nay thật nhiều dế. ”

“ Ấy là do thượng uyển của bệ hạ cây cỏ tươi tốt, yên tĩnh an toàn. Đối với họ nhà dế đúng là động thiên phúc địa, dế mới tìm đến làm tổ nhiều như thế. ”

Chu Đệ cười khẩy:

“ Dế không phải người, sao hiểu nổi nỗi sầu nhân thế? Người chẳng phải dế, vị tất thấu được cái khổ của côn trùng?? ”

Hồ Quý Li mơ hồ cảm thấy không ổn, chỉ sợ mình nói hớ câu nào.

Chu Đệ đặt li rượu xuống bàn.

Y gắp măng tre trong đĩa lên, nói thật khẽ:

“ Diễn kịch cả ngày trời, chắc hai ta ai cũng mệt mỏi lắm rồi, thôi dừng lại ở đây nhé, Hồ Quý Li giả. ”

“ Bệ hạ, tội thần không… ”

Đũa tre rơi xuống đất.

Chu Đệ nhìn thẳng vào mắt Hồ Quý Li đang ngồi đối diện mình. Cặp mắt y mở trừng, sáng quắc như hai hòn lửa, tưởng như có thể phản chiếu tất thảy những góc khuất bí ẩn nhất trong linh hồn kẻ khác.

“ Không cần ra vẻ ngạc nhiên, cũng đừng giả ngu trước mặt trẫm. Nhà ngươi diễn rất khéo, cơ hồ không sơ hở một tí nào. Theo trẫm thấy, ắt là người đã theo hầu Quý Li phải nửa đời người mới giả ra được cái khí chất của y một cách hoàn hảo đến thế. ”

Thấy Hồ Quý Li vẫn đang ngồi thừ người không nói gì hết, Chu Đệ bèn nhặt chén sứ lên xoay xoay, làm rượu sánh cả ra ngoài. Đoạn, y nói tiếp:

“ Bởi… ngươi đang ngồi ngay trước mặt trẫm đây, nên trẫm dám khẳng định ngươi không thể là Hồ Quý Li. ”

“ Bệ hạ, tội thần tuy là dân vong quốc, song cũng từng ngồi ở ngôi cửu ngũ chí tôn. Xin đừng nhục mạ nhau. ”

Hồ Quý Li trầm giọng, ngón tay gảy nhẹ lên li rượu một cái.

Tinh.

Rượu trong chén bắn vọt lên không trung, thành một cột nước nhỏ cao gần nửa thước. Bình thường gõ vào thành chén, thì rượu bên trong cũng chỉ có thể sóng sánh gợn sóng mà thôi. Muốn cho nó bắn lên không gần nửa thước, thì trình độ khống chế nội lực phải ở mức khó lường.

Chu Đệ vẫn bình chân như vại, làm như mình vừa thấy trò tiểu xảo mãi võ trên đường. Nói cho đúng hơn, là cặp mắt y đã khép lại như cũ. Không thèm nhìn, cũng không để vào mắt.

“ Nếu ta là Hồ Quý Li, chẳng thà mai danh ẩn tích thay tên đổi họ, giữ lại thân mình đặng sau này còn gầy dựng lại cơ đồ đông sơn tái khởi. Giữ được núi xanh, lo gì thiếu củi đốt? Còn không, thần long há để cho lũ thảo xà khinh nhờn?? ”

Hồ Quý Li nói:

“ Bệ hạ là cọp lớn trong núi rồng cuộn trong mây, sao hiểu được suy nghĩ của người phàm như tội thần? ”

“ Thế nên trẫm mới nói, nhà ngươi là kẻ mạo danh, một con tốt thí không hơn không kém.

Hồ Quý Li và trẫm thực chất vốn là cùng một loại người. Kẻ là một con sâu rượu, người là một gã ma men. Chúng ta đều say, đều nghiện đến tuý luý si cuồng thứ rượu độc nhất vô nhị mang tên thiên hạ. Thứ rượu này một khi nếm qua một lần, sẽ thành nghiện, nghiện đến điên dại lú lẫn. Cho dù có phải vào địa ngục vĩnh bất siêu sinh, cũng phải có được thiên hạ.

Mà ngồi ở đây, tức là chắp tay tặng thiên hạ cho người khác, không phải sao?

Ngươi thiếu cái điên cuồng si dại với giang sơn chỉ đế vương mới có, thế nên, hiểu ý trẫm chứ? ”

“ Nếu tội thần và bệ hạ vốn là cùng một loại người, thì thần đã không ngồi đây, mà đang an vị trên ngai rồng đất Đại Việt rồi.

Sắc trời đã muộn, sương đêm xuống nhiễm lạnh cóng cả bộ xương già. Bệ hạ cũng nên bảo trọng long thể, thần xin cáo lui. ”

Chu Đệ phẩy tay, cho Hồ Quý Li đi. Trông y hiện giờ chẳng còn vẻ gì là hứng thú với ông già tóc bạc ấy nữa.

Trong đêm khuya thanh vắng, thái giám cung nữ hầu hết đã say giấc nồng. Nhưng đám thị vệ tuần đêm thỉnh thoảng lại nghe tiếng ai lẩm bẩm theo ánh trăng phả vào ngọn gió khuya.

“ Lấy giả làm thật, hay lấy thật làm giả? Đều mâu thuẫn như nhau cả. Hồ Quý Li ơi Hồ Quý Li, không tệ. Lời thách thức này của ngươi trẫm tiếp nhận. ”

Lịch sử hai nước chỉ ghi lại cả Hồ Quý Li lẫn Chu Đệ đều lên ngôi bằng cách đoạt lấy giang sơn từ tay người khác, mà chẳng hề nói gì thêm. Thế nên rốt cuộc hai người là người như thế nào, có phải cùng một loại người không hay tất cả chẳng qua chỉ là sự trùng hợp rất đỗi ngẫu nhiên của lịch sử…?

Hậu thế chẳng ai biết được.

Sáng hôm sau…

Chu Đệ lại tiếp kiến một vị khách quý đến từ phương nam khác.

“ Chẳng mấy khi thiền sư vào triều, ban ghế cho ngồi. ”

“ Tuệ Tĩnh tạ chủ long ân. ”

Tuệ Tĩnh thiền sư hành lễ, rồi thản nhiên ngồi xuống. Bá quan văn võ trong triều ai cũng thấy ghen tị, không hiểu ông già này là ai mà lại được Chu Đệ đối xử đặc biệt đến thế.

Minh thành tổ nhoài lên, hồ hởi vô cùng:

“ Lần này đại y thiền sư vào triều, phải chăng là đã nghĩ thông suốt muốn ra sức phục vụ cho trẫm, tế thế cứu dân?? Chỉ cần một cái gật đầu của thiền sư, ngôi vị quốc sư chắc chắn về khanh. ”

Tuệ Tĩnh đáp:

“ Cảm ý tốt của bệ hạ, nhưng thứ cho thần tội bất kính. Tuệ Tĩnh giờ chỉ muốn dốc lòng học y cứu người, không cầu thêm điều gì. ”

“ Không vội, không vội. Cứ từ từ nghĩ cũng được. ”

Chu Đệ chẳng những không nổi giận, còn cười xoà như thể cho qua.

Tuệ Tĩnh lại đứng dậy chắp tay, nói:

“ Lần này vào cung một là muốn lấy mấy cây nhân sâm trong dược khố, hai là muốn nhờ bệ hạ chuyện này. ”

“ Thiền sư cứ nói. ”

“ Chẳng là gần đây bần tăng gặp qua một chứng quái bệnh, không biết trị ra làm sao. Lại sợ nhỡ nó bộc phát thành dịch thì thật là nguy hiểm. Lúc ấy chúng sinh ắt sẽ đồ thán, bách tính ắt phải lầm than. Thế nên mới mạo muội vào cung xin bệ hạ ân chuẩn cho mượn Ngự Thư phòng ít bữa. ”

“ Đến đại y thiền sư cũng phải bó tay, quái bệnh kia đúng là không tầm thường. Hi vọng thiền sư có thể sớm tìm ra manh mối trong ghi chép của tiền nhân, trị dứt quái bệnh cho trăm họ được nhờ. ”

Chu Đệ phất tay múa bút, loáng cái đã viết xong thánh chỉ cho Tuệ Tĩnh toàn quyền ra vào Ngự Thư phòng ba ngày ba đêm. Chẳng cần y ra hiệu, thái giám sau lưng đã cung kính chuyển chiếu chỉ trên bàn xuống tận tay Tuệ Tĩnh.

Thiền sư tiếp nhận chiếu thư, theo lễ là phải quỳ gối, khấu đầu. Xong ông chưa kịp hành lễ, Chu Đệ đã lên tiếng:

“ Thiền sư miễn lễ. Trẫm nhớ không nhầm thì thiền sư giờ đã ngoài thất tuần, là tiên thọ rồi. Nên bảo trọng thân thể, sau này vào cung gặp trẫm chỉ cần hành nửa lễ là được rồi. ”

Tuệ Tĩnh thiền sư biết Chu Đệ thực lòng quý mến tài mình, song làm ngự y có khác nào chim nuôi trong lồng cá nhốt trong ao? Khi ấy dân gian với mình chỉ cách nhau một lần tường, nhưng lại xa không thể với được nữa.

Tuệ Tĩnh lui xuống, bèn trước tiên ra dấu cho hai đứa nhóc đang chơi gần đó đi theo mình.

Hôm nay Tạng Cẩu mặc đồ của thái giám trong cung, tay với vạt áo cứ phải kéo lê tha lê thê rất là vướng víu. Cứ đi hai ba bước là vấp lên vấp xuống, ngã tới ngã lui làm thằng bé này cáu lắm.

Hồ Phiêu Hương thì mặc đồ của cung nữ, dáng vẻ uyển chuyển thướt tha. So với Tạng Cẩu thì đúng là thiên nga đi cạnh vịt bầu.

Tuệ Tĩnh dẫn hai đứa đến Ngự Thư Phòng. Có thánh chỉ của Chu Đệ, lính canh túc trực ở ngoài không ngăn cản ba người.

Cửa mở.

Mùi giấy hung hãn cuốn ra ngoài như một trận cuồng phong, phả thẳng vào mặt ba người. Mùi hương ấy hăng đến độ, cả ba không ai mở nổi mắt.

Bên trong căn nhà lớn chất quá nhiều sách vở, lại hiếm khi mở ra cho người ta vào, mới tạo nên tình trạng ấy.

Rộng lớn.

Mới bước đến bậc thềm thôi, mà đã có cảm giác choán ngợp, tưởng như ba người lạc vào tư dinh của ông bá hộ giàu có nào chứ chẳng phải phòng sách.

Xuất phát từ tính tò mò ham chơi của trẻ con, vừa bước vào Ngự Thư Phòng là hai đứa đã cuồng chân không chịu được. Tuệ Tĩnh chưa kịp lên tiếng can ngăn, thì hai đứa nhóc tì đã hoá thành hai con ngựa đứt cương, lao vút đi ngó nghiêng khắp nơi. Thiền sư cũng chỉ đành cười khổ, đồng thời cũng thầm khen khinh công của chúng.

Trái, phải, trước, sau. Trải dọc cả bốn bức tường Ngự Thư Phòng là cơ man không biết bao nhiêu là sách. Quyển này về y thuật, quyển kia bàn binh pháp. Mé này là sách thời Tống, chỗ kia là sách thời Đường. Có đến mấy vạn quyển, tất cả đều được sắp xếp theo chủ đề và niên đại. Sách vở càng ở trên giá cao, thì càng cổ xưa quý giá.

Trong Ngự Thư Phòng có đặt cả bàn đọc sách và một chiếc giường đơn, để hoàng đế nếu như lui lại đây đọc sách, thì tiện nghỉ ngơi luôn cũmg được.

Tạng Cẩu và Phiêu Hương chạy quanh một vòng coi như giãn cân giãn cốt. Duỗi vai duỗi gối xong rồi, hai đứa rồi bắt đầu chuyện chính ngay. Chúng mò đến những quyển sử nhà Tống trước tiên, tiêu biểu là pho Tống Sử.

Tương truyền bộ sách do Thoát Thoát – một người Mông Cổ viết, nên khá đáng tin cậy.

Nhưng Tống Sử có đến bốn trăm chín mươi sáu quyển, hai đứa muốn kiểm tra hết chỗ sách đó, nhanh lắm cũng mất vài tháng.

Tạng Cẩu gần đây mới bắt đầu đọc chữ, thấy đống sách sử này đã nhiều còn lắm chữ, bắt đầu thấy đầu đau óc nhức.

“ Hương này, nên bắt đầu từ lúc nào?? ”

“ Thánh tổ Khổng Lồ sống vào thời vua Lý Thần Tông, Lý Nhân Tông. Quân Tống sang đánh nước mình vào thời Nhân Tông, nên cứ tìm xem năm đó ai cho quân đánh Đại Việt, rồi đọc kỹ về người đó. ”

Phiêu Hương nghĩ một chút, rồi nói.

“ Này, sao cái gì Hương cũng biết thế? ”

“ Tớ bị phụ hoàng bắt đọc sách từ bé, cái gì cũng phải học. Có được thư thái như Cẩu, hết làm trâu lá thì đi nghe cổ tích đâu? ”

Hồ Phiêu Hương đáp.

Nhắc đến cha, cô bé lại thấy hơi chạnh lòng.

Đã nửa năm trôi qua, nhưng Phiêu Hương vẫn chưa làm quen được với chuyện cha cô bé đã mãi đi xa rồi.

Cô bé dốc sức đọc đủ loại sách, học đủ thứ trên đời, cũng chỉ mong cha mình vui.

Nay tuy Hồ Hán Thương đã không còn tại thế mà khen cô nữa, song những gì học được từ bé, đến lúc này bắt đầu hữu ích, phát huy tác dụng.

“ Thế thì tìm nhanh lên. ”

Tạng Cẩu reo lên.

Hai đứa nhóc vùi đầu vào sử sách, Tuệ Tĩnh thiền sư cũng không ngồi không. Trước bàn trà của ông để không biết bao nhiêu là thư tịch liên quan đến y thuật y đạo, chữa bệnh cứu người. Trong đó có cả những cuốn viết từ đời nhà Hán.

Chuyện ông muốn trị quái bệnh thực ra không phải là giả. Vài hôm trước, Nguyễn Phi Khanh đã kể cho ông nghe về triệu chứng lạ của cô bé Hằng. Thế nên, lần này nhập cung xin vào Ngự Thư Phòng, dù việc chính vẫn là giúp hai đứa nhóc tìm hiểu chuyện của thánh tổ Khổng Lồ, nhưng ngoài ra cũng là để nghiên cứu quái bệnh..

Tâm tính tỉ mỉ, thấu hiểu nhân tâm và khả năng quan sát đáng sợ của Chu Đệ khiến ông không thể không đề phòng. Tuệ Tĩnh tự biết, chỉ cần ông hơi có ý bịa điều đặt chuyện nói dối, y tất nhiên sẽ nhìn thấu.

Nhưng nếu ông nói thật thì sao??

Chuyện của cô bé Hằng vừa hay lại là một cái cớ, một sự che giấu hoàn hảo cho mục đích chính của ba người.

Thời gian thấm thoắt, nhoáng một cái ba người đã ở trong Ngự Thư Phòng hết hai ngày hai đêm. Khoảng thời gian này Chu Đệ vẫn cho Ngự Thiện phòng làm cơm canh chay tịnh mang đến cửa phòng, đúng giờ đúng bữa, vô cùng cẩn thận.

Có thể thấy y rất coi trọng Tuệ Tĩnh thiền sư.

Suốt thời gian nọ, Tuệ Tĩnh vừa chuyên tâm đọc Tống sử cùng hai đứa nhỏ, lại vừa nghiên cứu hàng đống sách cổ về y đạo đặng chữa trị cho cô bé Hằng. Hai đứa nhóc cũng chăm chỉ vừa đọc, vừa dạy nhau. Thế nhưng công cốc vẫn hoàn công cốc, tay trắng vẫn là tay trắng.

Suốt hai ngày đằng đẵng chỉ có đọc và đọc, nhưng vẫn chẳng thấy bóng dáng tăm hơi. Đừng nói là truyền tích, ngay cả tên của thánh tổ là Minh Không, tên huý Đạo Thành hay pháp hiệu Không Lộ cũng không thấy xuất hiện.

Tạng Cẩu chưa quen mặt chữ, không giúp được gì nhiều, chỉ thầm trách mình vô dụng.

Sang ngày thứ ba, tình hình vẫn chưa thấy có khởi sắc gì đáng kể.

Tạng Cẩu thở dài thườn thượt, ngồi tựa vào giá sách mà người cứ trượt xuống sàn. Quyển sách úp lên mặt, tay day day thái dương, đầu nó đau đến nỗi nó còn không muốn đứng dậy.

Hồ Phiêu Hương vẫn chú tâm vào tìm kiếm, ngón tay lá hành lần theo từng dòng chữ. Nhưng tìm mãi, tìm mãi, rốt cuộc cô bé cũng phải lên tiếng:

“ Thời Tống Thần Tông không thấy gì khác lạ. Cả thời Anh Tông, Triết Tông và Huy Tông cũng đã xem qua một lượt. Nhưng tung tích của thánh tổ vẫn mờ mịt. Chẳng lẽ, Khổng Lồ sang Tàu vay đồng chỉ là chuyện dân gian truyền miệng nhau? ”

Thiền sư Tuệ Tĩnh xua tay, nói:

“ Chuyện giả mấy cũng có hai phần là thật. Huống hồ báo chết để da, người ta chết để tiếng. Ông tin thánh tổ linh thiêng chỉ đang thử lòng mình thôi. ”

Nhưng nói thì nói vậy, ba người đều cảm thấy có chút khẩn trương. Bởi lẽ, hôm nay đã là ngày cuối cùng ba người được ở trong Ngự Thư Phòng rồi. Tốn nhiều công sức như thế, mà nay phải về tay không, thật đúng là khó chấp nhận.

Đúng lúc này, bên ngoài có tiếng gọi ỏn ẻn của Lí công công:

“ Đại y thiền sư, ông có trong đó không?? ”

Tuệ Tĩnh ra dấu cho hai đứa nhóc im lặng, rồi cất lời hỏi lại:

“ Lí công công. Theo Tuệ Tĩnh biết thì nay vẫn chưa hết kì hạn ba ngày cơ mà? ”

“ Hoàng thượng có việc triệu kiến, bản công công chỉ biết vâng mệnh truyền khẩu dụ. ”

Tuệ Tĩnh thiền sư đánh mắt, bảo hai đứa nhóc trốn vào gậm giường. Rồi mới ra mở cửa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.