Thánh Tuyền Tầm Tung

Chương 18: Chương 18: Lễ tang của người nguyên thủy




Nhằm tránh phải chiến đấu với người nguyên thủy Amazon, đội thám hiểm năm người chúng tôi quyết định đi suốt đêm, chiếu theo đường chỉ dẫn trên bản đồ, nhắm thẳng tới tọa độ đầu tiên ở ngay gần Cây cầu ma. Tôi vừa gặm lương khô vừa hỏi Tần bốn mắt, tại sao khi ấy người Inca lại đặt cho cây cầu của mình một cái tên xui rủi như vậy. Anh ta phán đoán: “Có lẽ là vì lúc ấy năng lực xây dựng thấp kém, công nghệ làm cầu tương đối lạc hậu, thường xuyên phát sinh sự cố giao thông. Người cổ đại không hiểu nguyên nhân, cho rằng do ma quỷ quấy phá, cho nên mới nghĩ ra một cái tên như thế.”

Vương Thanh Chính đi sau lưng tôi. Vừa nghe xong lời giải thích của Tần bốn mắt, y cười sằng sặc, vỗ bồm bộp vào vai anh ta, nói: “Cái đồ buôn nước bọt nhà anh đúng là một tấc lên đến giời, cái gì cũng có thể bịa ra được.”

Tần bốn mắt gạt bàn tay thối tha của y ra, hỏi lại bằng giọng coi thường: “Thế nào, cậu cả họ Vương có ý tưởng cao siêu gì chăng?”

Suốt chặng đường vừa qua, cậu ấm nhà họ Vương đã không ít lần bị Tần bốn mắt xa lánh. Đến lúc này, quyền nói chuyện khó khăn lắm mới đến tay, toàn thân bay bổng, y vỗ ngực một cái, nói: “Lúc cậu đây học đại học, đám nhà quê các anh, ngay cả đế quốc Inca nằm ở chỗ nào cũng còn không biết ấy chứ! Cây cầu ma có điển tích trong truyện thần thoại của người Inca hẳn hoi, không hề chỉ mang tính chất phong kiến mê tín đơn giản như anh nói đâu.”

Chúng tôi đi suốt đêm, đương nhiên sẽ bị mệt mỏi về thể xác lẫn tinh thần. Thấy câu chuyện có vẻ thú vị, tôi bèn cố tình kích động cậu ấm họ Vương: “Điển tích cái gì mà điển tích, không phải là những lời tuyên ngôn phản động do thằng ranh cậu bịa ra để lừa gạt quần chúng nhân dân đấy chứ?”

“Anh biết gì mà nói, cậu đây xác thực đã từng đọc câu truyện đó trong tài liệu lịch sử. Loại chữ Tây Ban Nha cổ ấy, nếu không có tôi, đám nhà quê các anh cả đời này cũng đừng mong mà đọc được.”

Tuyền béo phát cáu với y, hỏi xen ngang vào: “Cuối cùng thì thằng ranh nhà cậu có kể hay không, không kể thì đứng sang một bên cho đỡ vướng, đồng chí Hồ thân mến biết rất nhiều những mẩu truyện thú vị.”

Vương Thanh Chính sợ không ai để ý đến mình, vội xốc lại ba lô, bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về một câu chuyện thần thoại xa xưa của người Inca trong bóng đêm giữa rừng Amazon bạt ngàn.

Truyền thuyết kể rằng, xưa thật là xưa, có một vị anh chàng Inca, tên Karka, tên thường gọi là Kaka. Kaka hết lòng thành kính Đấng sáng tạo Viracocha, dùng toàn bộ thức ăn, nước uống, hoa quả đổi được từ công sức lao động để cúng tế cho Ngài. Sau đó, anh chàng đã yêu cô con gái nhà địa chủ tên Chaska. Cũng như bao câu chuyện tình yêu lãng mạn khác trong truyền thuyết, cô thiếu nữ Chaska không những xinh đẹp, hào phóng mà còn hiền lành tốt bụng. Quan trọng nhất là nàng không hề có chút thái độ khinh bần trọng phú nào. Cũng như Kaka, nàng bị tiếng sét ái tình ngay từ cái nhìn ban đầu.

Kaka cưỡi con lừa nhỏ, tài sản duy nhất trong nhà để tới nhà địa chủ cầu hôn. Lão địa chủ đương nhiên không đời nào chịu gả con gái cho một thằng ranh khố rách áo ôm. Lão nói với Kaka bằng giọng điệu thấm thía: “Nếu chỉ có tình yêu thì có tác dụng cái mẹ gì, cậu còn chẳng mua nổi món ngon nào đó cỡ thịt kho tàu để nuôi con gái ta. Ta khuyên cậu một câu, chàng trai, hãy ra ngoài phấn đấu đi, đến khi nào đủ tiền xây nhà dựng cửa thì mới trở về cưới vợ.”

Vì người con gái yêu dấu, Kaka lập tức lập lời thề, nếu như trong vòng một năm không thể thoát khó làm giàu, trở thành một anh nông dân ưu tú giàu có, anh chàng sẽ rời bỏ Chaska xinh đẹp, sau này sẽ không bao giờ xuất hiện nữa.

Kaka đi rồi, Chaska chung thủy ngày ngày mong chờ người trong lòng trở về. Lão địa chủ cũng giữ đúng lời hứa của mình, từ chối không biết bao nhiêu thanh niên tài giỏi đến cầu hôn con gái. Cho đến một ngày, khi vị Quốc Vương khi ấy là Pachacútec xuất hiện trong đội ngũ cầu hôn, lão địa chủ đã kích động đến mức không nói ra được câu gì, thiếu chút nữa là chảy máu não đi chầu ông bà ông vải. Nếu như vụ hôn nhân này mà thành công thì kể từ đó trở đi, bản thân có lẽ sẽ được thăng lên làm thần tiên rồi, ngay cả Quốc Vương còn phải gọi mình hai tiếng “Cha vợ” cơ đấy. Một cơ hội như thế, không phải ai cũng có phúc được hưởng. Tuy nhiên, dẫu sao lão địa chủ cũng là người đọc sách, biết thế nào là đạo làm người của bậc quân tử. Lão vừa kìm nén cơn kích động đang sục sôi trong lòng, vừa trả lời Quốc vương Pachacútec: “Hoàng Thượng, việc này thật sự không thể oán kẻ hèn này, mà do ngài đã tới chậm. Con gái kẻ hèn đã đồng ý chờ đợi cậu trai nghèo tên Kaka một năm rồi. Hay là thế này, ngài hãy hạ cố tới tán gẫu với con gái kẻ hèn một chút, để có thể dần nuôi dưỡng được cảm tình giữa hai bên.”

Quốc vương Pachacútec là người thế nào chứ, vua của một nước, bậc thánh hiền nghìn đời của người Inca, làm sao có thể thực hiện hình vi bỉ ổi nhân lúc cháy nhà mà đi hôi của như thế? Khi biết được lời thề của Chaska, ông ta lập tức biết khó mà lui, không hề làm người khác phải khó xử. Mặc dù vậy, Pachacútec cũng là một người cực kỳ đa tình. Sau khi rời khỏi nhà lão địa chủ, ông ta sai quân sĩ lập tức đào một con sông nối thẳng từ vùng đó tới kinh đô. Ông ta đặt tên cho con sông đó là “Achilannes”, với ý nghĩa là dòng nước vì cô gái xinh đẹp mà chảy.

Quốc Vương vừa mới ra lệnh đào sông, đội ngũ cầu hôn lập tức càng thêm hùng hậu. Trong số đó có một thanh niên, con trai của một vị quý tộc địa phương. Anh ta là người chính trực, có địa vị rất cao trong họ tộc, một lòng theo đuổi Chaska, tấn công cũng lắm mà thất bại cũng nhiều, không ngờ còn si tình hơn cả Quốc Vương Pachacútec. Thời gian thấm thoắt trôi qua, thời hạn một năm đã sắp đến, nhưng Kaka vẫn bặt vô âm tín kể từ lúc rời nhà đến bấy giờ. Lão địa chủ cảm thấy giờ là lúc nên chuẩn bị trước cho lễ cưới của con gái rồi, vì vậy mời vị quý tộc nọ đến nhà uống trà. Hai người cha vừa cắn hạt dưa vừa bàn bạc việc hôn nhân của con cái: “Thưa Quý ngài, ngài biết đấy, tính tình con gái tôi bướng như lừa vậy, kỳ hạn một năm còn chưa tới, nó khăng khăng thà chết cũng không chịu gả cho người khác. Tuy nhiên, theo tôi thấy, cậu thanh niên Kaka kia dù có tài năng đến mấy thì cũng không thể nào trở thành một ông chủ giàu có trong thời gian ngắn như thế. Ngài xem thế này có được không, chúng ta cứ dần tiến hành chuẩn bị cho hôn lễ đi là vừa, còn bảy ngày nữa là tròn một năm rồi. Đến lúc đó, cứ đưa thẳng kiệu hoa tới nhà. Chúng ta cứ quyết định như vậy thay cho bọn trẻ.”

Lão quý tộc cảm thấy ý kiến này không tồi. Ông ta bảo với lão địa chủ: “Thằng con trai nhà tôi thực sự phải lòng cô con gái rượu của ông. Ai cũng bảo cô gái một lòng chờ đợi Kaka, vậy mà thằng con trai khờ dại nhà tôi lại vẫn cứ chết mê chết mệt. Bảy ngày thì bảy ngày, nó chờ đã lâu như vậy rồi, chờ thêm một vài ngày nữa chắc cũng chẳng có vấn đề gì.”

Hai vị phụ huynh gian xảo kẻ xướng người họa, cứ như vậy định ngày kết hôn của hai đứa con vào bảy ngày sau. Thế còn anh bạn may mắn đến nỗi ngay cả Hoàng đế cũng phải ghen tị, Kaka đang cật lực kiếm tiền ở nơi quái quỷ nào vậy?

Đáp án đương nhiên là ở khu ruộng muối vùng duyên hải. Từ xưa đến nay, ở bất cứ quốc gia nào, muối luôn nằm dưới sự quản chế của chính phủ. Ông chủ khu ruộng muối đó là thân vương Capac Yupanqui, em trai ruột của Quốc vương đương nhiệm. Kaka có biểu hiện xuất sắc ở khu ruộng muối, hành xử khiêm nhường, kiên định tôn giáo tín ngưỡng đến mức thành kính. Người phụ trách đánh giá Kaka rất cao, vậy là tiến cử anh chàng cho Thân vương. Bởi vì Thân vương Capac Yupanqui thất bại trước người anh trai trong cuộc tranh cử làm người lãnh đạo quốc gia, do đó ông ta nổi giận chạy đến vùng duyên hải thành vua một cõi. Ông ta xem lý lịch Kaka, thấy anh chàng là tình địch của anh trai mình, tức khắc mừng rỡ đến mức dập đầu tạ ơn thần linh như bổ củi, cảm thấy thời điểm mình vả cho ông anh trai một bạt tai đã đến. Bởi vậy, Thân vương Capac Yupanqui ban cho Kaka thân phận quý tộc cùng với lượng tài sản tương ứng, để anh chàng có thể thành hôn với người trong lòng, hoàn thành lời hẹn thề lúc trước.

Đáng ra tất cả có lẽ đã kết thúc mỹ mãn, thế nhưng anh bạn Kaka lại là kẻ lắm trò. Anh chàng tính toán, thời gian chạy từ khu ruộng muối chạy về quê chỉ mất khoảng năm ngày. Vì vậy, đến khi còn cách kỳ hạn một năm có bảy ngày, anh chàng mới xin Thân vương cho nghỉ để về nhà, định tạo niềm vui bất ngờ cho hương thân phụ lão chốn quê nhà.

Đáng tiếc, người tính không bằng trời tính, một trận bão tố dữ dội hiếm thấy đột nhiên đổ ập tới, cuốn bay sạch sự phấn khích của Kaka, còn đột ngột mang tới cho anh chàng một niềm kinh sợ nhất trong cuộc đời.

Gió bão làm trở ngại hành trình của Kaka. Đúng ra chỉ cần đi năm ngày là về đến nơi, nhưng lại kéo dài đến tận bảy ngày. Chỉ cần vượt qua cây cầu là về đến quê nhà, nhưng anh ta lại bị kẹt ở bờ bên kia. Do mưa dữ dội tàn phá, cây cầu đã bị hỏng từ mấy ngày hôm trước. Kaka đứng ở bên này cầu, thậm chí có thể nhìn thấy đội ngũ đón dâu đỏ rực ở bờ bên kia. Lúc này chỉ còn cách hừng đông có một giờ, Kaka và Chaska đứng hai bên bờ sông nhìn nhau, trong lòng nóng như lửa đốt. Trong mưa gió bão bùng, họ đã tuyệt vọng đến mức định nhảy sông, ngờ đâu tiếng của ác ma Malik chợt vang lên: “Anh bạn trẻ, ta đánh giá cao lòng dũng cảm của ngươi. Thế nhưng Đấng sáng tạo Viracocha của các ngươi đã vứt bỏ ngươi, chỉ có ta mới có thể giúp ngươi. Ta có thể dựng một cây cầu giúp ngươi qua bên kia sông. Tuy nhiên, sau khi chết, ngươi phải giao linh hồn cho ta để làm thù lao, thế nào?”

Giống như người chết đuối vớ được cọc, Kaka ngay tắp lự đồng ý điều kiện của tên ác ma. Đôi bên giao ước, chỉ cần Malik có thể dựng lên một cây cầu giúp Kaka đi sang bờ bên kia là hắn sẽ thu được linh hồn của anh chàng. Malik sử dụng bản lĩnh thần kỳ của mình. Toàn bộ đá núi đều nghe theo sự kêu gọi của hắn, bay vọt tới bờ sông. Không bao lâu sau, một cây cầu đá đã sắp hoàn thành. Trong lòng Malik cực kỳ phấn khích, bởi vì chẳng mấy chốc nữa là hắn có thể cướp được linh hồn tín đồ thành kính của đối thủ cạnh tranh Viracocha ngay từ tay đối phương. Hắn đâu có ngờ, cùng lúc ấy Viracocha đang ẩn núp trong bóng tối, chuẩn bị cho tên ác ma cần cù thân mến này một niềm vui bất ngờ.

Lại nói tiếp, thời gian đã sắp đến hạn, cả cây cầu sẽ hoàn thành chỉ trong chốc lát nữa. Malik chọn một viên đá nhỏ cuối cùng để trám vào khe hở cầu. Nhưng chẳng hiểu tại sao, viên đá bé xíu đó lại chẳng chịu nghe theo mệnh lệnh của hắn. Malik cực kỳ tức giận, thế nhưng viên đá vẫn cứ trơ trơ ra, bởi vì Đấng sáng thế Viracocha vĩ đại đang bám ở mặt dưới của nó. Cho dù Malik có bản lĩnh hái sao trên trời cũng không thể nào lay động được viên đã bị Đấng sáng thế bám vào. Tên ác ma tứ chi phát triển, cứ thế ngu si vật lộn với viên đá bé xíu đó, không biết đường chuyển sang viên đá khác xem sao.

Lúc này, tiếng gà gáy bắt đầu vang lên ở đằng xa, ước hẹn một giờ đã hết. Nhờ cục đá đó, Kaka viện cớ thắng cược tên ác ma. Chỉ vì một hòn đá nhỏ râu ria, Malik mất mất linh hồn đã sắp đến tay. Hắn thẹn quá hoá giận, từ đó về sau lấy cây cầu đá đó làm giới hạn, cả đời không qua lại với con người. Bờ sông bên kia đương nhiên thuộc về địa bàn của Malik, không còn có người nào dám bước chân vào vùng đất ma quỷ đó nữa.

Tôi nghe say sưa, trong lòng tràn ngập tò mò về Cây cầu ma sắp xuất hiện. Nhờ vào câu chuyện, toàn bộ chuyến đi nặng nề đã có được niềm vui thú khác. Chúng tôi mải thảo luận với nhau, đoán xem thế giới ở bờ bên kia Cây cầu ma rốt cục sẽ có điều gì thần kỳ gì, kéo dài đến nửa đêm lúc nào mà không hay. Đang đi dẫn đầu đội ngũ, Đầu Trọc đột nhiên ngồi thụp xuống, tay phải nắm thành nắm đấm giơ lên trời. Nhận ra tín hiệu báo phía trước phát sinh tình huống khẩn cấp, tôi lập tức giang rộng hai tay ra, chặn mấy người phía sau lại.

Mấy người Tuyền béo mải tán dóc ở phía sau, đột ngột bị tôi cản lại, đồng loạt nín lặng, nhướng mắt nhìn tôi. Tôi khom người xuống, ra hiệu cho ba người nằm dán xuống đất, sau đó tất cả nhẹ nhàng bò tới gần chỗ Đầu Trọc.

Khi còn cách lão ta khoảng 200 mét, tôi nhìn thấy ánh lửa lác đác qua tán lá rậm rạp của cây rừng. Một lát sau, tiếng ồn ào văng vẳng đâu đây vọng về. Đầu Trọc trốn trong bụi cỏ phía trước mặt tôi không hề nhúc nhích. Tôi vừa bò tới gần lão ta vừa âm thầm tự mắng mình quá sơ suất, chỉ mải nghĩ đến câu chuyện ma quái đầy mới lạ kia, vậy mà quên bẵng không để ý gì đến chung quanh.

Thấy tôi tới gần, Đầu Trọc nhẹ nhàng nhích sang bên cạnh, sau đó chỉ vào rừng cây đối diện, nói: “Lần này coi như chúng ta nhảy bổ vào giữa họng súng, cả một ổ người nguyên thủy Amazon.”

Tôi gạt nhánh cây chắn trước mặt ra, lập tức không thốt nổi lên lời, nguyên nhân là vì nhìn thấy người nguyên thủy đang mở hội. Trên khu đất trống trải bên bờ sông có khoảng ba bốn mươi người nguyên thủy Amazon với thân hình cao lớn, tóc tai bù xù đang tụ hội, trong số đó nữ có nam có, ngay cả trẻ con cũng không thiếu phần. Đám người đó, quần áo tả tơi, trên mặt không biết bôi thứ gì đó ánh lên màu lam ma quái trong trời đêm tối đen như mực. Trên con đê cách đó không xa có một bãi đá lộn xộn, có bốn năm cái xác người nguyên thủy được đặt nằm ngay ngắn dưới đất. Tôi nhận ra cái xác có hình thể cao lớn nhất chính là của tên người nguyên thủy cầm búa đá đã bị Tuyền béo bắn chết, bèn bảo với Đầu Trọc: “Có lẽ bọn chúng tụ tập ở chỗ này để cử hành táng lễ cho đồng bọn, nhưng sao lại chết quá nhiều người như thế. Tôi nhớ lúc ấy bên mình chỉ bắn chết có một người thôi mà.” Đầu Trọc gật đầu, đáp lại: “Lúc ấy tôi và cậu cả bị ba bốn người nguyên thủy bao vây, cho nên không dám ham chiến, chỉ bắn mấy phát để hù dọa bọn chúng. Mấy người nguyên thủy còn lại không thể nào chết dưới tay chúng ta được.”

Bên bờ sông, đám người nguyên thủy tuần tự giơ đuốc lên cao, hét lên những tiếng kêu quái dị, vây thành vòng tròn, sau đó bắt đầu đi vòng quanh đống lửa nhảy múa loạn xạ. Thân hình bọn chúng lay động trong bóng đêm, giống hệt như một đám cô hồn dã quỷ vừa mới bò từ quan tài dưới mộ lên, cực kỳ đáng sợ. Lúc này, Tuyền béo cuối cùng cũng luồn tới được bên cạnh tôi. Vừa mới nhìn thấy cảnh tượng trước mặt, cậu ta đã lập tức buột miệng nói: “Người nguyên thủy đang mở đại hội đại biểu đây sao, ở đâu chui ra lắm thổ dân như vậy. Mẹ ơi, kẻ nằm trên mặt đất kia chẳng phải là Búa Lớn bị chúng ta bắn chết vào buổi chiều hay sao? Tại sao lại đột nhiên chết nhiều người như vậy?”

Tôi nói: “Giờ quan trọng nhất là chuồn ra khỏi nơi đây an toàn, không được để cho bọn chúng phát hiện ra. Tuyền béo, cậu phụ trách dẫn Bốn mắt và cậu ấm nhà họ Vương rút lui trước, tớ và Đầu Trọc sẽ ở lại canh chừng, các cậu lần lượt rút từng người một thôi, không được bắn súng.”

Tuyền béo không đồng ý để tôi ở lại với Đầu Trọc: “Việc yểm trợ giao cho anh ta phụ trách thế này, tớ không an tâm. Hãy để tớ ở lại.”

Tôi bảo: “Chỉ vì không yên tâm nên tớ mới bắt anh ta ở lại. Lỡ như sau khi rút lui an toàn, người nhà họ Vương quay lại nã một phát súng, hai thằng chúng ta chẳng phải sẽ hết đường chạy trốn hay sao.”

Tuyền béo giơ ngón tay cái về phía tôi, vỗ vai Đầu Trọc, sau đó dẫn Tần bốn mắt và cậu ấm nhà họ Vương nhẹ nhàng rút lui ra khỏi rừng cây. Lá cây bị chân người dẫm lên phát ra tiếng lạt xạt. Tôi căng thẳng quan sát đám người nguyên thủy trên bờ đê, sợ bọn chúng phát hiện ra có người lạ xâm nhập vào lãnh địa của mình. Từ chỗ chúng tôi nằm phục ở chỗ rừng cây đến con đê, khoảng cách chỉ tầm 300 đến 400m. Tôi trốn ở trong bụi cây mà gần như vẫn có thể loáng thoáng cảm nhận được sức nóng của đống lửa. Tôi quay đầu lại nhìn lướt qua, cả cậm ấm nhà họ Vương và Tần bốn mắt nối đuôi nhau biến mất khỏi tầm mắt của tôi. Tuyền béo vẫy tay với tôi, ra hiệu mình cũng rút đây. Tôi gật đầu để hối thúc cậu ta đi mau. Đúng lúc này, trên con đê đột nhiên vang lên tiếng hoan hô như sấm động, tôi nuốt nước bọt khan, vội vàng nâng súng trường lên, nhắm về phía đối diện. Qua ống ngắm, tôi bất ngờ nhìn thấy một phụ nữ người châu Á mặc trang phục chuyên dùng để tác nghiệp trong rừng nhiệt đới, bị mấy tên người nguyên thủy hung hãn kéo từ phía sau bãi đá lộn xộn ra. Cô ta bị chúng túm chặt cổ áo, liên tục giãy dụa, hai tay bị trói quặt sau lưng, không ngừng ngồi bệt xuống đất, cố chống cự không cho mấy người nguyên thủy kéo đi. Cô gái này quả thực rất khỏe, mấy tên người nguyên thủy xúm lại khiêng lên mới đưa được cô ta tới bên cạnh đống lửa. Vừa nhìn thấy cô ta, đám người nguyên thủy xung quanh đồng loạt trở nên phẫn nộ ra mặt. Mấy đứa trẻ con nhe răng hung dữ với cô ta, thỉnh thoáng còn nhặt đá ném. Tuy rằng cô gái đó kiên cường, nhưng liên tục bị mấy viên đá cuội ném trúng, trên đầu đã bắt đầu tóe máu.

Tuyền béo đã định rút đi hẳn, nghe thấy ồn ào lại lộn trở lại. Cậu ta cũng nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ này, lập tức mở chốt an toàn định nổ súng. Đầu Trọc ghìm cò súng của cậu ta lại: “Việc này không có liên quan gì đến chúng ta. Giờ mà cậu nổ súng ,chẳng những chẳng cứu được cô ta mà còn khiến chúng ta bị liên lụy vào cả đám.”

Tuyền béo đẩy Đầu Trọc ra, bắt đầu ngắm bắn: “Mẹ nhà ông, là đàn ông thì hãy theo cậu đây đánh một trận. Mẹ kiếp, hãy xem cậu đây xử lý đám cháu chắt này.”

Đầu Trọc giục tôi mau khuyên nhủ Tuyền béo, muôn ngàn lần không thể hành động theo cảm tính. Tôi đáp lại, xin lỗi nhé ông anh Lưu. Trong việc này, tôi kiên quyết đứng về phía người anh em của mình. Thấy chết mà không cứu, tôi không thể làm được. Tôi bảo với Tuyền béo: “Nhắm thẳng vào tên thủ lĩnh của chúng mà bắn. Cậu vừa bóp cò, tớ sẽ lập tức xông lên. Đến lúc đó, cần phải dùng hỏa lực yểm hộ tớ đấy.”

Tuyền béo nói: “OK, lần này bạn đây sẽ không tranh đoạt công đầu với cậu. Cậu đi sớm về sớm, con gái nhà người ta đang bị hành tội kia kìa!”

Đầu Trọc đấm mạnh một cú xuống đất rồi nói với tôi: “Cậu không thể xông lên một mình được, bọn chúng quá đông người. Tôi sẽ xông lên cùng với cậu.”

Tôi vừa mới định khen ngợi lão ta vài câu, Tuyền béo đã bắn cái “Đoàng” một phát tóe lửa. Đáng tiếc độ chuẩn xác quá kém, không bắn trúng tên thủ lĩnh đám người nguyên thủy. Đám người nguyên thủy bên bờ sông bị tiếng súng làm cho hoảng sợ tới mức hồn vía lên mây. Lũ đàn ông bắt đầu thét lên chói tai, vung vũ khí bằng đá lên chém loạn xạ vào không khí, đám đàn bà thì kéo trẻ con chạy loạn lên tìm chỗ ẩn núp. Thấy thời cơ đã đến, tôi và Đầu Trọc lập tức đứng phắt dậy, một tay cầm khẩu Walter bán tự động, một tay cầm ngược dao găm quân dụng, cấp tốc lao vọt xuống bãi sông bên dưới.

Đám người nguyên thủy đang bị tiếng súng nổ đột ngột làm kinh sợ tới mức hồn vía lên mây, lúc này nhìn thấy trong rừng cây có người ẩn nấp, cảm thấy thật sự không cần phải kinh sợ như vậy. Khi đã xác định được kẻ thù cũng là con người, mà không phải là thần thánh cao siêu, không thể chống lại được, bọn chúng lập tức khôi phục lại ý chí chiến đấu. Mười mấy tên người nguyên thủy lực lưỡng nhặt lao dài, búa đá lên, lao tới chặn đánh chúng tôi. Chúng tôi đang trong trạng thái chạy từ trên dốc cao xuống, muốn bắn chuẩn xác là việc cực kỳ khó khăn. Ngay cả việc mình bắn mấy phát, tôi cũng chẳng còn nhớ được chính xác. Đến khi sắp chính diện chạm trán với đám người nguyên thủy, tôi giắt khẩu Walter vào thắt lưng, đổi dao găm sang tay thuận.

Tên thủ lĩnh mất sạch cả mặt mũi vì phát súng vừa rồi, lúc này thẹn quá hoá giận, giương cao cây búa đá to đùng nhằm thẳng vào tôi mà chém xuống. Lần trước tôi đã bị nếm trái đắng với thứ binh khí hạng nặng này, lần này không dám liều lĩnh, vội nghiêng người giơ dao găm ra đỡ, trốn tránh không đánh chính diện. Đầu Trọc đã bảo vệ cho lãnh đạo cao nhất của thương hội hơn nửa đời người, kinh nghiệm đối địch lão luyện, phản xạ đương nhiên lưu loát hơn tôi rất nhiều. Một tay cầm súng một tay cầm dao găm, lão ta tung hoành giữa đám đông người nguyên thủy, động tác gọn gàng linh hoạt, chỉ trong nháy mắt đã đánh chém đến gần chỗ đống lửa.

Để tạo cơ hội thuận lợi cho lão ta cứu người, tôi phải gánh lấy trách nhiệm lôi kéo sự chú ý của đối phương. Tôi vừa quần nhau với tên thủ lĩnh người nguyên thủy, vừa bắt chước theo bọn chúng hú hét lung tung, với mong muốn tập trung toàn bộ sự chú ý của chúng vào một mình tôi. Không ngờ, chiêu này lại thật sự có hiệu quả. Đám người nguyên thủy nãy giờ vẫn vây quanh đống lửa, sau khi nghe thấy tiếng hú hét của tôi, chúng đua nhau lao vọt về phía tôi. Nhằm kéo dài thời gian cho Đầu Trọc, tôi vừa bắn súng vừa guồng chân chạy lòng vòng quanh bãi sông. Người nguyên thủy nhìn thấy tôi cứ như nhìn thấy một con mồi mới lạ, đuổi riết không ngừng phía sau. Tôi vừa cố gắng chạy vòng quanh, vừa thầm cầu khẩn, mong sao động tác của Đầu Trọc nhanh hơn một chút. Nếu không, lão ta còn chưa cứu được người thì cái mạng của tôi đã ô hô ai tai mất rồi.

Trong lúc tôi đang chạy như ngựa phi, chân đột nhiên bị níu chặt, không hiểu do vật gì quấn vào, cơ thể mất thăng bằng, ngã đánh uỵch xuống đất. Lớp đá lởm chởm bên bờ sông lập tức cứa lên cơ thể làm tôi rách thịt chảy máu be bét, cây súng văng luôn ra khỏi tay. Tôi cúi đầu xuống nhìn, hóa ra là một sợi dây quăng tự chế của người nguyên thủy. Loại dây quăng này được chế tạo bằng cách buộc hai viên đá tròn lại với nhau bằng một sợi dây ngắn, tôi đã từng được nhìn thấy một cái tương tự trong viện bảo tàng. Shirley Dương đã giải thích cho tôi, đó là vũ khí hữu ích của người Anh-điêng dùng để bắt con mồi lúc đi săn, trói chân không cho chúng chạy mất. Vào thời cổ đại, Trung Quốc đã từng có loại dây quăng tương tự. Loại vũ khí này cực kỳ thích hợp khi được sử dụng ở vùng bình nguyên bằng phẳng, khi phối hợp với kỵ binh chạy với tốc độ cao sẽ có uy lực cực kỳ đáng sợ. Không ngờ, tôi cầm trên tay vũ khí nóng hiện đại của thời văn minh, lúc này vậy mà lại thất bại dưới thứ vũ khí lạnh từ cả ngàn năm trước. Hai chân tôi bị trói chặt, đừng nói là chạy, ngay cả bò cũng không thể bò đi được. Tôi buộc phải vừa lết mông di chuyển, vừa dùng dao găm cắt dây. Chẳng hiểu sợi dây của loại vũ khí này được làm bằng thứ gì, đã to lại còn dai, ngay cả dao găm quân dụng được chế tạo bằng thép tinh cũng không thể cắt đứt được.

Đám người nguyên thủy đuổi theo phía sau, nhìn thấy tôi đã bị mình bắt được, khoái chí cười hô hố, giơ cây giáo dài lên cao bằng cả hai tay, không ngừng hú hét. Tên thủ lĩnh người nguyên thủy chạy ở vị trí đầu tiên của đội ngũ, quay lại hét lên vài câu với đám thuộc hạ, sau đó sải bước lao như tên bắn tới chỗ tôi.

Tôi thấy khoảng cách giữa hai bên chỉ còn lại có tầm mười bước chân, cuống quít gào ầm lên: “Tuyền béo, mau nổ súng, bạn đây gặp phải tai họa đến nơi rồi.”

Trong bụi cây vang lên tiếng loạch xoạch, sau đó chợt nghe thấy Tuyền béo chửi ầm lên: “CMN lão Ma cô già, cung cấp cho cậu đây toàn thứ hàng second hand, kẹt mẹ nó rồi lão Hồ. Bạn đây liều cái thân già cứu cậu!”

Cậu ta vừa dứt lời, một thân hình béo tròn trăng trắng bổ nhào từ trong rừng cây ra. Tên thủ lĩnh người nguyên thủy bị cậu ta đâm sầm vào, thiếu chút nữa là toàn bộ ngũ tạng lục phủ bị ép nát như tương. Tôi vội vàng lăn sang một bên, cuống quít tìm cách cởi sợi dây ra. Tôi nói: Tuyền béo, tớ cứ thắc mắc sao cậu trốn trong rừng mà không bắn yểm trợ cho bọn tớ, hóa ra là súng bị kẹt. Hèn gì cậu ta im lìm không có động tác gì. Có lẽ là quá ức chế, cậu ta mới ném phắt súng đi, tay không lao vọt ra.

Tình hình bên phía Đầu Trọc không quá lạc quan. Còn chưa kịp tiếp cận cô gái đang nằm trên mặt đất, lão ta đã bị đám người nguyên thủy đang vây xung quanh người mấy xác chết phát hiện ra, lúc này đang phải lấy một địch mười, có thể nói là bị tấn công từ mọi phía. Cố gái bị đá nện ngất lịm lúc trước, đến giờ chợt mở bừng mắt ra, nhìn thấy thế lập tức hét lên bằng Trung: “Súng!”

Tôi đang cố cởi sợi dây trói chân, nghe thấy cô gái này hô lên súng, cứ ngỡ rằng cô ta hoảng loạn hét lên lung tung. Tôi thầm nghĩ bụng, nữ đồng chí này, tay vẫn còn đang bị trói, đòi súng để làm cái quái gì! Không ngờ, cô gái đó hét xong, lập tức thực hiện một hành động khiến cho tất cả mọi người phải kinh ngạc. Cô ta đứng dậy, sau đó tới bên cạnh đống lửa, ngửa người mượn ngọn lửa đang cháy rừng rực đốt đứt dây trói dễ như bỡn. Tiếp đó, cô ta lao vọt đi như tên bắn, cúi xuống nhặt khẩu Walter mà tôi đã đánh rơi, “đoàng” “đoàng” bắn liền mấy phát.

“Bố khỉ, bà cô này đã sợ đến mức choáng váng rồi!” Tuyền béo chỉ vào cô ta, thốt lên, “Cô ta bắn xác chết để làm gì?”

Tôi không tài nào ngờ tới, cô ta không tiếc làm bỏng chính mình, cuối cùng chỉ là vì muốn bắn thêm vào cái xác đang đặt nằm trên bãi đá mấy phát. Chẳng lẽ thực sự cô ta bị kích thích quá năng lực thừa nhận, đã biến thành kẻ đần?

“Nhìn cái gì vậy, các anh mới là kẻ đần! Đầu Trọc, mau bắn vào những cái xác kia!” Cô gái vừa chĩa súng vào xác chết dưới đất, vừa bảo Đầu Trọc đang tiến lại gần. Nói ra kể cũng lạ, đám người nguyên thủy đang làm chủ tình thế, vừa thấy cô ta chĩa súng vào cái xác, tất cả đều sợ hãi ra mặt, có mấy kẻ thậm chí còn ném cả lao dài đi, quỳ hướng mặt về phía chúng tôi.

Chẳng lẽ trong quan niệm của những người nguyên thủy Amazon này, người chết còn quan trọng hơn cả người còn sống? Xác của họ không thể bị hủy đi hay sao? Giống như để xác nhận suy đoán của tôi, tên thủ lĩnh người nguyên thủy không hề do dự ném cây búa đang cầm trên tay xuống. Những người nguyên thủy còn lại nhìn thấy thủ lĩnh đầu hàng, không ai dám tấn công tiếp nữa, ngoan ngoãn vứt bỏ vũ khí.

Đầu Trọc dùng súng chỉ vào xác chết, hỏi tôi: “Chúng ta ra khỏi đây bằng cách nào bây giờ, cứ dây dưa thế này không phải là cách hay, cậu cả nhà tôi vẫn đang chờ chúng ta ở ngoài kia.”

Tuyền béo nhặt một cây giáo dài dưới đất, gác lên vai rồi nói: “Náo động như vậy mà cậu ấm nhà anh cũng không quay trở lại chém giết, có lẽ đã chạy xa lắm rồi, không cần lo lắng làm gì. Theo tôi thấy, tốt nhất chúng ta cõng theo những cái xác người nguyên thủy này, đợi đến chỗ nào an toàn thì thả chúng xuống.”

Dùng xác chết làm con tin, đây là chuyện lạ mới được nghe thấy lần đầu tiên. Tôi bảo với Tuyền béo: “Nếu những cái xác này quan trọng đối với bọn chúng đến thế, chúng đương nhiên sẽ không dễ dàng buông tha, tất yếu sẽ truy đuổi chúng ta không buông tha. Chúng ta không thể nào cứ mãi vác theo những cái xác này để làm lá chắn được.”

Trong một chốc một lát, chúng tôi tiến thoái lưỡng nan, thật sự không thể nghĩ ra biện pháp nào để có thể an toàn thoát ra khỏi vòng vây của rất nhiều người nguyên thủy. Chỉ cần chúng tôi rời khỏi đám xác chết này, lũ người nguyên thủy tất nhiên sẽ lập tức ồ ạt lao tới, xé nát bốn người chúng tôi thành mảnh nhỏ.

Lúc này, cô gái kia liếc nhìn sang phía chúng tôi, hỏi: “Có một chỗ, tôi cam đoan bọn chúng không dám bám theo. Mấy người các anh có dám theo tôi đến đó không.”

Việc chúng tôi cứu cô ta lúc trước hoàn toàn xuất phát từ lòng nhân đạo. Về phần thực chất cô ta là ai, vì sao lại có mặt ở trong rừng sâu vào thời điểm này, hay là vì sao bị người nguyên thủy bắt làm tù binh, những vấn đề này có thể nói là chúng tôi không biết một chút gì. Giờ cô ta đột nhiên đưa ra lời đề nghị chúng tôi cùng đi, thậm chí còn nhắc lại một lần nữa: “Có dám hay không”, không thể không khiến cho người khác phải sinh lòng nghi ngờ. Đầu Trọc liếc nhìn tôi đầy oán trách. Tôi thừa hiểu, lão ta đang trách lúc trước hai chúng tôi không sáng suốt, tự quăng mình vào cái vũng bùn này làm gì. Nhưng tôi tự hỏi lòng, cho dù có quay ngược thời gian trở lại, tôi vẫn cứ chọn cứu người.

Tôi phớt lờ cái nhìn ẩn ý của Đầu Trọc, khẽ gật đầu với cô gái: “Cô dẫn đường, chúng tôi theo.”

Cô ta cười cười, chỉ tay vào ngọn núi cách đó không xa, nói: “Chỉ cần chúng ta có thể lên trên đó, những người Cranemore này sẽ không dám bám theo chúng ta nữa.”

Tôi thật sự chẳng biết ngọn núi mà cô ta nói có điểm gì đặc biết. Nhưng để tránh phát sinh xung đột với qui mô lớn hơn với người nguyên thủy bản địa, chúng tôi đành phải từ bỏ tuyến đường đã định sẵn từ trước, leo lên trên ngọn núi đó để lánh nạn.

Để cản trở không cho người nguyên thủy đuổi theo sớm, tôi và Tuyền béo dùng dây quăng trói chặt mấy kẻ cầm đầu lại. Sau đó, chúng tôi còn ném tất cả giáo dài và búa đá của họ vào trong đống lửa. Đầu Trọc đưa ra đề xuất, giết chết luôn thủ lĩnh của họ. Bởi thể chế bộ lạc lấy tù trưởng làm trung tâm, nếu mất đi người lãnh đạo, toàn bộ bộ lạc sẽ hoàn toàn lâm vào trạng thái tê liệt. Trước khi chọn ra được tù trưởng kế nhiệm, họ sẽ không có lòng dạ nào mà truy đuổi chúng ta. Đề nghị của lão ta bị hai đứa tôi nhất trí bác bỏ, bởi dù sao những người nguyên thủy này mới là chủ nhân của khu rừng nhiệt đới. Sự có mặt đột ngột của chúng tôi thực chất là một hành động xâm lấn đối với họ. Nếu như tàn sát bừa bãi tộc đàn của họ, vậy thì chúng tôi đâu có gì khác với đám thực dân Tây Ban Nha đã từng cướp sạch Đế quốc Inca khi xưa.

Vì lo lắng bên phía Tần bốn mắt và Vương thiếu, chúng tôi quyết định trước hết quay về chỗ rừng lá to đã hẹn trước, chờ hai người họ ở chỗ cái cây cổ thụ. Cô gái tên Lâm Phương, là một nhà thực vật học. Một tuần trước, cô ta dẫn theo nhóm nghiên cứu nhỏ của mình vào rừng nhiệt đới để thu thập tiêu bản thực vật. Không ngờ, tối hôm qua họ đã bị một nhóm người nguyên thủy tấn công, tổ công tác bị thương vong nghiêm trọng. Cô ta đã bị tách ra khỏi những người còn lại, không may bị bắt.

Tôi lấy cái thẻ quân hiệu nhặt được ở thôn Titamar ra, hỏi cô ta có biết một người dẫn đường tên là Adong không. Cô ta cực kỳ kích động, giật phắt lấy cái thẻ: “Cảm ơn Thượng đế, tôi cứ tưởng mình đánh rơi nó ở trong rừng. Cái thẻ quân hiệu này là di vật của cha tôi, có ý nghĩa rất lớn đối với tôi. Cám ơn anh, cảm ơn anh rất nhiều!” Về phần Adong đang ở nơi đâu, cô ta trả lời bằng giọng hơi hối tiếc: “Đúng là chúng tôi đã nhờ một người tên là Adong dẫn đường, anh ta còn giúp chúng tôi qua mặt vị tù trưởng của thôn. Lúc ấy, chúng tôi đã thống nhất tuyến đường đi tới bờ bên kia của Cây cầu ma trong truyền thuyết. Thầy tôi đã từng đi qua nơi đó, hơn nữa còn mang về một loại trái cây màu đỏ hết sức kỳ lạ. Nhưng kể từ đêm hôm qua trở đi, tôi chẳng có tin tức gì của Adong cả. Nếu như không gặp phải bất trắc, có lẽ hiện giờ anh ta đang ở cùng chỗ với những người còn lại.”

Tôi hỏi cô ta có cách nào để có thể liên lạc với tổ nghiên cứu của mình không. Cô ta lắc đầu: “Chúng tôi đã thực hiện công tác chuẩn bị chu đáo từ trước, cho nên cứ nhằm thẳng tới đích đến là Cây cầu ma mà tiến, nhưng có ngờ đâu lại xảy ra tình huống bất trắc như thế này.”

Ngay từ ban đầu, Đầu Trọc đã không có hảo cảm gì với Lâm Phương. Lão ta bảo rằng, đó là bệnh nghề nghiệp. Những người trong nghề lão ta có lòng tin tuyệt đối vào trực giác, vừa mới gặp cô gái này đã cảm thấy toàn thân khó chịu. Cho dù có làm thế nào đi chăng nữa, lão ta vẫn cứ không thể nào nảy sinh cảm giác tín nhiệm đối với cô ta. Tuyền béo khịt mũi coi thường luận điệu đó: “Nếu ai cũng giống như anh, lúc nào cũng nghi với ngờ, người này cũng không tin, người kia cũng đáng ngờ, vậy thì đến lúc nào mục tiêu giải phóng toàn bộ nhân loại vĩ đại mới có thể thực hiện được? Đường đường một người đàn ông thân bảy thước cao, suốt ngày làm mình làm mẩy với phụ nữ, anh thử nói coi bản thân mình có thấy thú vị gì không? Cá nhân tôi cảm thấy, đồng chí Lâm Phương là một cô gái tốt. Ít nhất, vào thời điểm đối mặt với kẻ địch, phản ứng của cô ấy cực kỳ bình tĩnh, hơn nữa còn rất dũng cảm, không giống như mấy cậu ấm, vừa thấy đánh nhau là đã cụp đuôi bỏ chạy.”

Đầu Trọc ghét nhất là có người nói xấu người nhà ông chủ mình, thế là lập tức phản bác lại: “Rút lui đâu phải là quyết định của mình cậu cả nhà tôi, thằng ranh họ Tần nhà các anh chẳng phải cũng bỏ chạy hay sao?”

Tôi hỏi Lâm Phương: “Vì sao lên núi sẽ không còn phải sợ bị người nguyên thủy truy đuổi nữa. Lẽ nào trên núi có thứ gì đó mà họ đặc biệt kiêng sợ hay không?”

Lâm Phương nhìn dãy núi xa xa, trả lời bằng giọng đáng tin cậy: “Những người nguyên thủy ở cạnh bờ sông Amazon này là người Cramer, là một nhánh của người Anh-điêng. Ngọn núi mà chúng ta sắp tới được coi là sào huyệt của Malik, trong ngôn ngữ Cramer có nghĩa là vùng đất chết. Trên núi không có lấy một ngọn cỏ, không có bất cứ sinh vật sống nào. Theo tục lệ của người Cramer, khi nào Thầy mo trong bộ lạc cảm thấy thời gian của mình không còn nhiều lắm, họ sẽ chạy đến sào huyệt của Malik để chờ chết. Nguyên nhân là bởi theo quan niệm của người Cramer, Thầy mo là người liên lạc giữa trời và con người. Sau khi chết, họ sẽ quay về trời. Nếu giữ xác của Thầy mo lại bộ lạc, mai táng theo nghi thức của người bình thường, điều đó sẽ mang tai họa tới cho bộ lạc. Về phần những người còn lại trong bộ lạc, kể cả là thủ lĩnh cũng không được phép, thậm chí cũng chẳng có gan bước chân vào vùng đất bị cái chết chiếm giữ đó.”

Tôi đã từng được nghe kể, trong nhà dưỡng lão, đến khi sắp chết những ông cụ bà người Miêu sẽ bỏ nhà trốn đi để tránh cho những người khác phải thương tâm, họ sẽ trốn ra bên ngoài chờ chết. Điều khó hiểu là tại sao trong cộng đồng người Cramer lại lưu truyền một tục lệ kỳ lạ như thế.

Thấy chúng tôi tràn đầy hứng thú đối với văn hóa lưu vực sông Amazon, Lâm Phương tiếp tục nói: “Cái xác mà các anh nhìn thấy bên bờ sông lúc nãy là xác của Thầy mo bọn chúng. Lão chính là người cầm đầu cuộc tập kích nơi trú quân của chúng tôi. Chẳng hiểu lão đã gặp phải quả báo nào, đến buổi tối khi được đồng bọn khiêng trở về thì đã chết rồi, không kịp chạy tới sào huyệt của Malik. Cho nên, họ đã tổ chức gọi hồn cho lão ngay ở bên bờ sông, dùng người sống để hiến tế, với mục đích trao đổi lấy lại hồn phách của Thầy mo. Lúc ấy, nếu không nhờ các anh xuất hiện kịp thời, đến giờ chỉ sợ tôi đã bị họ dùng đá đập chết rồi.”

Tuyền béo nói, hèn gì bọn chúng lại cuống cuồng lên khi nhìn thấy cô nổ súng vào xác chết đó, có lẽ là vì sợ đến khi hồn phách quay lại, tên Thầy mo kia lại phát hiện mình đã bị người ta bắn thành tổ ong vò vẽ.

Lâm Phương hào hứng nói: “Phạm vi hoạt động của người Cramer nói chung chỉ gói gọn quanh khu vực lòng chảo ở ven sông. Chúng ta chỉ cần vượt qua sào huyệt của Malik là có thể quay trở về tuyến đường đi đến chỗ Cây cầu ma lúc trước. Nếu như may mắn, chúng ta còn có thể vượt qua đội ngũ của tôi.”

Sau đó, chúng tôi đi theo một đường vòng cung rất rộng, cuối cùng quay trở về điểm hẹn ở chỗ rừng lá to. Khi chúng tôi tới nơi, hai người Vương Thanh Chính và Tần bốn mắt đang cãi nhau, đại khái là tranh luận xem có nên quay trở lại tiếp viện chúng tôi hay không. Hai người thấy có thêm một cô gái, lập tức xông tới hỏi rối rít cả lên. Ma Cô Trẻ chỉ vào Lâm Phương, hỏi: “Đây có phải là cô vợ sắp cưới đã mất tích của anh không đấy?”

Tuyền béo đáp: “Cậu ta muốn thế lắm, đáng tiếc là nhà khoa học cao giá người ta không đồng ý. Ôi lão Hồ, cậu nói xem, lần này đến nước Mỹ, liệu có thể giải quyết vấn đề cá nhân của hai anh em chúng ta cùng một lượt không?”

Tranh thủ lúc Lâm Phương quay đi chỗ khác, tôi bảo với Tuyền béo: “Cậu cố gắng lấy một lần đi, học tiếng Anh cho tốt, tìm cách ở lại nước Mỹ, tăng cường lôi kéo làm quen với nhà khoa học tên tuổi đó, có lẽ lòng dạ người ta sẽ mền nhũn ra, nhắm mắt lấy thân báo đáp cũng chưa biết chừng.”

Không ngờ Lâm Phương lại nghe thấy được. Cô ta hứ một cái rồi không thèm nói năng gì với hai thằng nữa, chạy tới chỗ Tần bốn mắt hăng say nói chuyện với anh ta. Tôi nói, Tuyền béo cậu đừng có mơ mộng nữa, bà cô này vừa ý anh chàng luật sư tài giỏi của chúng ta mất rồi. Tuyền béo phiền muộn nhìn lướt qua bầu trời đêm, đáp lại tôi: “Không sợ! Lenin có một câu rất hay, phụ nữ rồi sẽ có, tiền bạc rồi cũng sẽ có. Anh đây chịu đựng được cô đơn.”

Đầu Trọc kể lại sơ qua toàn bộ sự việc vừa xảy ra cho hai người kia nghe. Cuối cùng, lão ta chốt lại: “Những người nguyên thủy kia có nhiều khả năng đã triệu tập hầu hết lực lượng của mình để truy sát, cho nên chúng không thể chần chừ bất cứ một giây phút nào nữa, phải lập tức tiến vào sào huyệt của Malik ngay.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.