Thanh Triều Ngoại Sử

Chương 51: Chương 51: Tiễn đưa ngàn dặm cũng phân ly




Tiễn đưa nghìn dặm cũng phân ly

Yêu thương gẫy vụn chớ sầu bi

Duyên cùng tình tận ngăn đôi ngã

Níu kéo mần chi đã nhạt nhoà

Mấy tên lính Thanh tuân lệnh, liền bước ra khỏi hàng ngũ. Nữ thần y nhìn sang thấy Tần Thiên Nhân đang quằn quại vì chất độc, thấy chàng như vậy trong tim nàng đau nhói, liền nói nhỏ với Lâm Tố Đình:

- Muội không thể đi với hai người được rồi, muội sẽ tìm cách giữ chân chúng, hai người chạy đi thôi.

Lâm Tố Đình rưng rưng nước mắt nói:

- Không có muội làm sao huynh ấy sống một mình cho được?

-Muội xin lỗi - Nữ thần y nghẹn ngào - Nhưng muội không thể để huynh ấy chết, còn có rất nhiều người đang kỳ vọng vào huynh ấy.

Đoạn nàng gượng gạo nở một nụ cười, nói thêm:

- Chất độc huynh ấy đang mang trong mình không phải là độc dược giết người mà chỉ làm cho người ta bị trọng thương, khi độc tánh bộc phát hoàn toàn rồi sẽ khiến người ta không thể cử động. Song chỉ cần qua vài hôm thì độc sẽ tự giải, tới chừng đó huynh ấy sẽ bình an vô sự, không phải sư thái hay bảo với chúng ta hễ còn sống là còn cơ hội sao?

Nàng dứt lời không cho Lâm Tố Đình nói gì thêm, rút một con dao trong tay áo ra đưa lên, quay mũi dao chỉ vào yết hầu mình.

-Đứng lại! - Nữ thần y nói - Các người bước thêm bước nữa ta sẽ chết ngay!

Gương mặt biến sắc, Dương Tiêu Phong vội la lên:

-Tất cả đứng lại!

Nữ thần y lại nói:

-Bảo họ lui ra!

Tiêu Phong không dám chậm trể, vẫy tay, bọn binh sĩ lùi hết về hàng ngũ.

-Nàng hãy cầm dao cho vững! - Tiêu Phong nói - Đừng làm bản thân bị thương!

Sau đó lại nói:

-Chỉ cần nàng chịu theo bổn tướng về kinh thành, muốn gì ta cũng chiều!

Rồi lại hỏi tiếp:

-Thế nào?

Nữ thần y càng siết chặt cán dao trong tay, mắt chỉ nhìn Tần Thiên Nhân, không đáp một lời. Lát sau nàng nhìn Dương Tiêu Phong nói:

-Lời của tướng quân có tin được không?

Tần Thiên Nhân toàn thân như đang chìm trong bể lửa, lại như đang có muôn ngàn lưỡi dao xẻ da lóc thịt, cả ngoài lẫn trong cực kỳ đau đớn, không còn tính toán gì được nhưng chỉ suy nghĩ qua đã hiểu ngay tâm tư của nương tử liền nói:

- Tầy Hồ, muội đừng làm thế, huynh thà là chết cũng không bỏ lại muội một mình!

Khẩu Tâm cũng nghĩ để cho Tần Thiên Nhân thoát đi thật quá nguy hiểm, chẳng khác nào như chim sổ lồng tìm về trời cao, cá thoát lưới đã ra được bể rộng, không còn gì câu thúc nữa. Nhỡ mai này hắn trở về thì…

Khẩu Tâm bèn tiến lại gần Dương Tiêu Phong, mở miệng gọi:

-Bẩm Phủ Viễn tướng quân…

Chưa kịp nói gì thêm, Dương Tiêu Phong đã khẽ lắc đầu. Khẩu Tâm đành ngậm miệng lại.

Tiêu Phong sau khi ra hiệu cho Khẩu Tâm im lặng thì nhìn nữ thần y, mỉm cười rồi thở ra nói:

-Đương nhiên, ta thân dù là một mệnh quan của triều đình, nhưng cũng là nhân vật giang hồ, thì hai chữ tín nghĩa còn nặng hơn tính mạng. Võ lâm có câu “quân tử chỉ nói một lời, ngựa tốt chỉ quất một roi,” nên nàng có yêu cầu gì cứ việc nói ra.

Tay nữ thần y vẫn nắm chặt cán dao, nói:

-Dân nữ muốn tướng quân để hai người họ đi, dân nữ sẽ theo ngài về kinh thành, bằng không...

Nàng nói tới đây dùng dao cứa nhẹ ngang cổ mình, làn da trắng hồng liền rỉ ra một chút máu. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ khiến cho Tiêu Phong hoảng sợ đến nỗi mặt xanh xao, môi trắng bệch, toàn thân đầy mồ hôi lạnh, vội ngăn:

-Dừng lại! Đương nhiên là được! Ta hứa với nàng!

Rồi quay sang bảo Tô Khất:

-Chuẩn bị cỗ xe ngựa!

Tô Khất vâng dạ, quay mình rời đi.

Tần Thiên Nhân khi này muốn lên tiếng nhưng không mở miệng được, khắp các huyệt đạo trên thân thể chàng như bị chất độc phong lại. Trong lòng cay đắng, chàng tự nhủ từ khi gia nhập Đại Minh Triều, rồi trở thành đương gia, chàng đã giữ bình yên cho rất nhiều người nhưng lại không bảo vệ được người thân yêu nhất!

Chàng thân là tổng đà chủ, lại không bảo vệ được cho nàng, người vợ mới cưới chưa được một ngày!

Tần Thiên Nhân ngồi tựa vào Lâm Tố Đình, tuyệt vọng đến tận cùng, liệu ai tưởng tượng được, một thiếu nữ xinh đẹp như một đoá hoa, đứng giữ núi rừng hoang vu, dáng vóc thanh nhã và thuần khiết trong bộ hỉ phục, lại có thể thản nhiên bàn việc trao đổi sinh mạng mình với một người đàn ông, tự nhiên như thể chỉ nói: “Trên núi này quan cảnh rất đẹp.”

Chàng vừa thương nàng vừa giận bản thân mình, đột nhiên lại nghe thấy những tiếng sột soạt. Sau gáy chợt buốt lên, một cây kim nhỏ đã cắm vào cổ. Chàng nhìn lên chỉ kịp thấy trên đỉnh Thiên Sơn những tảng băng màu trắng đang pha chiếu ánh hoàng hôn lấp lánh, rồi tiếng khóc sụt sịt của Lâm Tố Đình nghe xa dần, xa dần. Cuối cùng, chàng chẳng còn nghe gì nữa.

Sau khi nữ thần y lén dùng kim châm điểm huyệt của Tần Thiên Nhân làm chàng ngất đi, hai tên lính Thanh đỡ chàng ngồi trong cỗ xe ngựa. Lâm Tố Đình cũng lên ngồi trước xe, nắm lấy dây cương nhưng bất luận thế nào cũng không chịu đánh xe đi.

Lâm Tố Đình không ngừng quay nhìn nữ thần y, cất tiếng khóc ròng, cảm thấy nhói buốt trong tim. Dù bị thương nặng, thân thể đau đớn nàng cũng sẽ gắng mà chịu đựng, hoặc là chết đi nàng cũng không sợ, nàng chỉ không đành lòng để người chị em thân thiết phải hy sinh như vậy. Một thiếu nữ vốn không hiểu chuyện đời, ngây thơ vui vẻ, bỗng dưng phải ở lại một mình kháng cự với mấy vạn quân binh.

Nữ thần y thấy Lâm Tố Đình chần chờ không chịu cho ngựa chạy đi, sốt ruột lắm, chợt nữ thần y nghĩ ra một điều liền nói:

-Muội không bao giờ tranh giành để lấy con người huynh ấy, cái muội muốn, chỉ là giành lấy trái tim. Bây giờ muội hy sinh bản thân mình để sau này trong tim huynh ấy mãi nhớ về một mình muội thôi!

Lâm Tố Đình nghe những lời này, đột nhiên dừng khóc, ngưng thần nhìn nữ thần y một cái rồi lập tức giật dây cương cho xe ngựa chạy đi.

Nữ thần y nhìn theo cỗ xe chạy xa dần xa dần, nhớ năm xưa có lần nàng hỏi:

-Thiên Nhân à, tình yêu có vĩnh cửu không? Huynh có hứa sẽ yêu muội cho đến hết kiếp này?

Khi đó Tần Thiên Nhân gật đầu, thì thào vào tai nàng:

- Kiếp này, kiếp sau và mãi mãi.

Dương Tiêu Phong cũng thấy cỗ xe của Tần Thiên Nhân đã đi xa rồi, mà nữ thần y vẫn không hạ dao xuống, lại nữa nàng chỉ nhìn mình với ánh mắt đầy uất hận, không còn ánh mắt dịu dàng của năm xưa nữa, trong lòng chàng rất đau.

Chàng tự nhiên nghĩ hồi còn ở kinh thành, có lúc công việc bận rộn, ngồi trước đống sớ tâu mãi làm đầu óc chàng quay cuồng, nhưng ngắm bức tranh của nàng do Tô Khất nhặt được ở khu rừng Sơn Tây một cái là lòng chàng bình yên lại. Nhớ năm xưa trong căn nhà ở Thiên Sơn, nàng như chú chim yên tĩnh đậu nhẹ bên giường chàng, dường như nàng ngồi bên là để chờ mắt chàng mở ra rồi nhìn sang, bởi mỗi khi chàng nhìn nàng, nàng đều lặng lẽ nhìn lại. Cái nhìn lướt từ đôi mắt đẹp như mặt nước hồ phẳng lặng, không gợn thoáng ưu tư nào, kỳ lạ sao làm lòng chàng yên ả. Có lần chàng tưởng hai người là đôi vợ chồng cưới nhau đã lâu, đã mười năm chung sống rồi.

Tiêu Phong nhìn vết thương đang rỉ máu trên cổ nữ thần y, muốn băng bó giúp nàng, muốn nói với nàng rằng hằng năm chàng đều về căn nhà trên Thiên Sơn, hy vọng được gặp nàng, bứt rứt chờ đợi, hết ra lại vào, cố lắng tai nghe ngóng nhưng cửa nhà vẫn đóng im ỉm.

Nửa năm trước chàng cũng có về lại đó, đi về phía cửa sổ, sờ tay trên bề mặt gỗ thô nhám, nhủ thầm: “Hãy cứ ở yên đấy, sự khao khát của ta.” Rồi quay về với kinh thành trở lại với công việc bề bộn của mình.

Ở kinh thành có hàng loạt những cô gái ve vãn chàng như loài công khoe ra cái đuôi rực rỡ màu sắc cuốn hút, còn chàng vẫn thế, kiêu ngạo và luôn thách thức, đứng yên lặng nhìn lũ người ấy xu nịnh mình. Quá nhiều mặt nạ, quá nhiều thị phi, sự giả tạo có mặt ở khắp nơi mà chẳng có điều gì chân thật. Chàng quá mệt mỏi với hàng loạt khuôn mặt trắng trẻo hồng tươi. Những toan tính vây lấy chàng, cơ hồ màn sương dày đặc mà mặt trời chẳng thể xua đi.

Nhưng giờ đây... chàng khẽ thở dài khi thấy nàng vẫn nhìn mình căm phẫn, ánh mắt như muốn nói chàng và nàng hai người là hữu duyên vô phận, như hai đường thẳng vô tình gặp nhau, mãi mãi không bao giờ giao nhau thêm một lần nào nữa.

Mũi dao khi này hãy còn ép sát vào chiếc cổ trắng ngần của nữ thần y. Dương Tiêu Phong sợ nàng không giữ lời hứa theo mình về kinh đô, kinh hồn thất đảm, vội tìm cách đánh lạc hướng nàng. Trong lúc bức bách chàng chợt nhớ ra một chuyện bèn vờ lấy giọng tự nhiên nhất có thể:

-Tại sao học sinh trường học các người không chịu vào Quốc tử giám? Vào đó rồi các mức tổn lệ phí đều do triều đình tài trợ, khi học xong thì tiền đồ rực rỡ, hà cớ gì lại tình nguyện đi Đồng Sơn chịu đói chịu rét mà không đi Bắc Kinh?

Nữ thần y khi này trong lòng không nghĩ được chuyện gì khác ngoài Tần Thiên Nhân, nàng vừa đau đớn vừa chua xót cho cuộc tình nàng. Nàng với Tần Thiên Nhân mới vừa thành hôn, còn chưa được động phòng, mà bây giờ hai người sẽ vĩnh viễn mất nhau rồi. Hai giọt lệ từ từ lăn ra khỏi khóe mắt nàng. Giờ nàng nghe nhắc đến Cửu Dương, không biết bây giờ chàng ra sao rồi, còn sống hay là đã… Nàng lại nghĩ đến Trương Quốc Khải, nghĩ đến sư thái, Lữ Nghị Trung, Tàu Chánh Khê, và vô số người trong hội đã bị binh tướng triều đình giết hại, một cơn phẫn nộ từ dưới đáy lòng nàng nổi lên.

Nữ thần y quắc mắt nhìn Dương Tiêu Phong, trả lời câu hỏi của chàng, giọng nói nàng như vỡ ra:

-Tại sao họ không chịu vào Quốc Tử Giám! Chẳng lẽ tướng quân thật tình không biết?

-Không lẽ… - Tiêu Phong nói - Chỉ vì người và người khác nhau nên các học sinh không chịu theo phò hoàng đế? Không chịu vì bá tánh phò trợ hoàng thượng để giúp ngài trở thành một vị hoàng đế tốt? Nếu thật vậy thì bản quan thấy họ rất cố chấp, hết sức thiển cận, những người không có tầm nhìn rộng.

Tiêu Phong nói đoạn ngưng lại cho nàng theo kịp, trước khi thêm lời:

-Các học sinh trong Hắc Viện, tiền đồ của họ là ở quan trường. Bản quan hiểu các người sợ phá vỡ giới hạn giữa Chu và Kỳ nhưng nếu các người cứ nghiêm giữ giới hạn này, đối với thế đạo nhân sinh có ích gì? Từ khi người Mãn chúng tôi nhập quan, số người không nhiều, rất cần những người Hán có học giúp sức, khiến cho đất nước này ngày càng thịnh trị. Nếu như những người Hán có tài cứ mai một, thì nàng nghĩ thử xem, sự đau khổ của bá tánh một phần cũng là tại các người gây ra.

Tiêu Phong nói đến đây lại ngừng, thoáng mừng khi thấy mũi dao của nữ thần y có phần nới ra, liền tiếp:

-Học sinh trong Hắc Viện có biết bao nhiêu là người, có thể giúp được biết bao nhiêu là việc. Căn bản của trị học dùng để làm gì? Là để cứu lê dân bá tánh, bản tướng nói đúng không? Mà muốn cứu lê dân bá tánh thì chính là ở tại nha môn chứ không ở trường học. Nàng nghĩ thử xem, Hắc Viện chỉ yêu cầu các học sinh học, học, và học. Không cho họ làm việc gì dính dáng tới quan trường. Nhưng nếu không có ai có tài đi làm quan cho Thanh triều, thì những kẻ làm quan chỉ là những bọn quan chiếu. Bang hội Đại Minh Triều các người theo giết bọn đó, hôm nay bắt đi được một quan chiếu, ngày mai triều đình lại đáu nhận một tên khác, hèn gì sự đau khổ của lê dân bá tánh mới vô bờ bến.

Tiêu Phong vừa nói vừa khoan thai leo xuống ngựa, chậm rãi tiến lại gần nữ thần y, tiếp tục nói:

- Hắc Viện từ khi khai giảng đến nay đã hơn ba mươi mấy năm rồi, thư sinh đi ra từ trường học này có đến hơn ba chục ngàn người, chỉ tại vì sự phân biệt triều đại mà không ai chịu đi làm quan, ngay cả cái quyền lực nho nhỏ ở Hàng Châu cũng chẳng có ai nắm được, thì còn nói đến cái gì là tiêu trừ thác lưu, quan phục Hán nghiệp, còn nói chi đến hoàng thiên hậu thổ, lấy lại sơn hà?

Nữ thần y chờ Dương Tiêu Phong nói xong cả rồi, chậm rãi gật đầu đáp:

-Tướng quân ngài nói rất đúng!

Tô Khất, Triệu Phật Tiêu và Nhạc Chung Kỳ đứng gần đó thấy nữ thần y đã thông hiểu một cách mau chóng, ba người nhìn nhau mỉm cười.

Nữ thần y tiếp:

-Mãn Thanh từ khi nhập quan đến nay cũng đã mấy mươi năm rồi, nói theo một cách khách quan, thì hai triều Hoàng Thái Cực và Thuận Trị có thể gọi là thịnh thế, họ đã trừng trị tham quan, nam tuần trị sông, giảm miễn thuế má, thống trị quyền địa, ở biên cương thì thi hành Cải Thể Quy Lưu. Trong binh pháp trị quốc của người Hán chúng tôi thì đó gọi là “đức chánh.” Quốc lực của Thanh triều cũng có thể nói là ngày càng hùng cường, lê dân bá tánh có thể miễn cưỡng nói là được an cư lạc nghiệp. Nhưng tướng quân ngài có biết, chính sách đàn áp của nhà Thanh của ngài cũng đã đem lại tệ hại to lớn cho nhân dân các tộc. Các người sợ bá tánh làm phản, liền thi hành bạo chánh, cấm kết Minh Xả, chấp hành Văn tự ngục, đả kích sĩ khí của văn sĩ, lệ hành thế phát, trong toàn quốc thực hành hải cấm. Không riêng thì trường học Hắc Viện của chúng tôi mà các học đường khác có bao nhiêu nhân sĩ trí thức đều bị triều đình bắt ép đi vào Quốc Tử Giám, họ phản ứng, liền bị triều định giết chết.

Dương Tiêu Phong mấp máy môi định lên tiếng, nhưng nữ thần y không để chàng có dịp đáp trả, nhanh chóng nói thêm:

-Ở hồi cương tình hình còn tệ hơn thế nữa, đời sống các tộc ở hồi cương cực khổ vô cùng, ngài có biết không? Triều đình của ngài đã dùng chính sách độc ác để khinh khi hồi giáo, chia rẽ hồi tộc, cố ý lợi dụng tôn giáo phân hóa người dân ở hồi cương, để cho nội bộ của họ xảy ra mâu thuẫn, khiến họ tàn sát lẫn nhau, như vậy thì triều đình mới có thể đường đường công khai đem binh đến trấn áp, dẹp loạn. Tiện đó cũng có thể chiếm lấy đất đai, tài sản, của cải dân Hồi, bắt đàn bà con gái đi làm kỹ nữ, nam nhân thì làm khổ sai, giết người lớn tuổi và trẻ em, coi mạng người như rơm rác. Chỗ mà làm cho người ta khó chịu nhất đó là khiêu khích các dân tộc đối chọi lẫn nhau, Hồi Mông Hán dân đánh nhau, thù sát lẫn nhau, vì có như thế thì triều đình của ngài mới không cần tốn một binh lính nào cũng có thể đạt tới mục đích của họ. Cho nên thưa với tướng quân, cái gọi là giới hạn giữa Chu và Kỳ, giữa người Mãn và người Hán đó chỉ là một trong số các lý do mà các học sinh của Hắc Viện không chịu vào Quốc Tử Giám!

Và chợt nhớ ra một điều, nữ thần y tiếp:

-À, còn thêm chuyện này, tướng quân ngài có biết, rằng sách học ở Hắc Viện khác với Quốc tử giám của ngài. Ở Hắc Viện chúng tôi học “đạo lý trị binh,” còn học ở Quốc tử giám là “đạo lý trung quân,” đạo bất đồng bất tương duy nên các học sinh không chịu đi.

Tiêu Phong nãy giờ nghe nàng kể ra một lô một lốc các tội trạng của triều đình Mãn Châu, chưa biết đáp trả thế nào, giờ nghe nàng bảo vậy, mắt sáng lên nói:

-Ổ! Nhưng người Hán các người có câu “trị binh lập quốc, quốc tức hữu quân,” như vậy đạo lý trung quân không lẽ là không đúng hay sao?

Nữ thần y nở một nụ cười chua chát đáp:

-Trước là trị quốc, sau đó mới trung quân, như vậy mới là hiền thần. Còn nếu như trung quân rồi mới trị quốc thì đó chỉ là nịnh thần mà thôi.

Ngay sau đó nàng lại nói thêm:

-Quân hữu đạo thần tử vô hận, còn quân mà vô đạo thì thần phải đánh trống đánh cồng thôi.

Tiêu Phong nghe vậy, tiếp tục hỏi:

-Thế như vậy thì, nàng nhận thấy hoàng thượng tiền triều là hữu đạo hay vô đạo?

-Ha ha...

Nữ thần y không mỉm cười nữa mà bật tiếng cười lớn.

Dương Tiêu Phong sững người lại, có hơi ngạc nhiên. Lần đầu tiên chàng trông thấy một cô gái không biết võ công đứng trước mặt mình cười ngạo mạng như vậy, chàng lại càng cảm thấy ở cô gái này tiềm ẩn sự quyến rũ. Năm gặp nàng, nàng chỉ có mười ba tuổi, nhưng lại thu hút chàng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nàng đẹp đến mức ngỡ ngàng, tính tình hoạt bát thông minh, khi nói chuyện, chàng càng bị hấp dẫn hơn bởi nàng rất hiểu biết, nhưng đôi khi lại giống như một viên pha lê, lại có lẽ như là con nhà gia giáo và ít trải đời.

Tiêu Phong khi này không tức giận vì tiếng cười của nàng mà chỉ hỏi:

-Nàng cười cái gì?

Tô Khất, Nhạc Chung Kỳ, Triệu Phật Tiêu và chúng quân thấy chủ soái của họ dễ dãi, chỉ biết trố mắt mà nhìn. Lời lẽ khi quân như cô gái này vừa thốt, họ không đời nào dám nói ra. Họ cũng cảm thấy rất lạ là vị thống lĩnh của họ, người có thể hô mưa gọi gió có thể mạnh mẽ quyền uy với bất kỳ ai, nhưng riêng với cô gái này lại trở nên dễ dãi thậm chí có phần ân cần và đương nhiên rất là quan tâm như thế.

Khẩu Tâm bấy giờ đã không còn đứng trong hàng ngũ của quân đoàn Chính Bạch Kỳ nữa.

Nữ thần y nghe Dương Tiêu Phong hỏi, bao phẫn nộ được dịp trút ra, đáp ngay:

-Hoàng thượng của người Mãn toàn những anh hùng trên lưng ngựa, nào có khí khái của hoàng đế tọa triều!

Chúng quân lại được một phen há hốc miệng, lời vô lễ này nếu thoát từ cửa miệng một người khác đã bị tru di cửu tộc mất rồi, song Tiêu Phong nghe vậy không chỉ không giận, còn rất bình thản mỉm cười.

Thật sự thì chàng cũng cảm thấy lạ với chính bản thân mình, xưa nay chàng chưa từng đối với ai mềm mỏng như vậy, nhưng hôm nay đối với nàng là một ngoại lệ. Chàng từng tiếp xúc với không ít mỹ nhân, tất cả những người chàng từng chung đụng chưa bao giờ để lại chút tình cảm nào trong lòng chàng. Đây là lần đầu tiên chàng thấy tim mình rung động, có lẽ đây là lần đầu tiên chàng gặp một người con gái to gan đặc biệt như thế này.

Chàng cũng không biết chàng yêu thích nàng của ngày xưa hay của hiện tại hơn, hay là cả hai? Tự nhiên chàng nhớ năm xưa, nàng ngồi bên suối như một đóa hoa hàm tiếu hứa hẹn đầy hương sắc, tinh khiết, mảnh mai, thanh tao, nguyên vẹn. Mái tóc nàng mềm mại e ấp bay bay theo mỗi làn gió nhẹ, nàng ngồi bó gối giữ rừng hoa đào nở rộ. Ai nhìn thấy cũng sẽ ưa thích vẻ đẹp trinh tuyền ấy. Nàng không phải là hoa khôi lộng lẫy, rực rỡ gây phản ứng rạo rực, kích thích giác quan mà là một thiếu nữ bẩm sinh thiên phú từ vóc dáng, cử chỉ, giọng nói đến nụ cười dễ gây ấn tượng nhẹ nhàng, êm đềm, tín cẩn đi thẳng vào lòng người.

Nhưng người con gái đứng trước mặt chàng bây giờ thay đổi rồi, nàng không còn ngây ngô, bây giờ nàng cứng rắn hơn. Tiêu Phong nhìn nàng một lúc, miệng vẫn giữ nguyên nét cười hỏi:

-Vậy theo nàng, một hoàng đế tọa triều phải là người thế nào?

Nữ thần y không cần suy nghĩ, đáp ngay:

-Là người có học.

Tiêu Phong nghe nàng đáp cũng bật tiếng cười, nhưng cười một cách độ lượng, khẽ lắc đầu, chàng nói:

-Té ra người có học còn ghê gớm hơn vị anh hùng nữa đấy.

Nữ thần y nói:

-Không sai, bởi nếu anh hùng làm hoàng đế bá tánh sẽ chịu khổ.

“Không ngờ một cô gái nho nhỏ lại có tài phát biểu nghị luận như vậy,” Dương Tiêu Phong vừa cười vừa nhủ bụng, mà chàng, bất quá lại rất thích nghe. Chàng cũng thấy lạ, chỉ gặp nàng không lâu mà sao lại có sức lôi cuốn đầy ma mị đến vậy?

Ở trong phủ đệ của chàng không ít lần, nữ nhân từng thỏ thẻ bên tai chàng những lời ân ái đường mật nhưng chưa bao giờ chàng thấy lòng mình rung động.

Thế mà lần này, chỉ mấy câu nói chua chát, chàng chợt thấy trái tim đập rộn lên. Dương Tiêu Phong lòng xốn xang, lại muốn nghe nàng còn gì để nói nữa, bèn hỏi:

-Vậy để ta hỏi nàng, từ cổ chí kim, có người có học nào có thể làm được hoàng đế đây?

Nữ thần y đáp:

-Xuân Thu có Khổng tử!

Tiêu Phong tiến lại gần nàng thêm vài bước nữa, dịu dàng nhìn nàng, thấy gương mặt trước mặt chàng thanh tú toát lên vẻ thanh thoát dịu kỳ dưới ánh sáng mờ dịu của trời chiều. Chàng giơ ngón trỏ lên nói:

-Một người.

Nữ thần y nói:

-Chiến Quốc có Mạnh tử!

Tiêu Phong gật gù, lại tiến lên, giơ hai ngón tay:

-Hai người.

Nữ thần y nói:

-Đời Tống có Chu Tử!

Nữ thần y nói bấy nhiêu, Tiêu Phong nghe xong thủng thỉnh giơ ba ngón tay lên rồi nói:

-Hơn hai ngàn năm, Trung Nguyên chỉ có được ba người, nàng nghĩ sao?

Nữ thần y im lặng.

Dương Tiêu Phong thấy nàng chau mày suy nghĩ, trên khuôn mặt còn nét ngây thơ bỗng có thêm sắc thái trầm tư lo lắng, trong vẻ kiều diễm tuyệt thế lại pha thêm sự già dặn chín chắn. Chàng ngẩn cả người ra mà nhìn ngắm.

Lát sau chàng nói tiếp:

-Từ xưa đến nay, những người nắm giữ đất nước hầu hết đều nói rằng lấy “nhân nghĩa” và “hiếu đạo” để trị vì thiên hạ nhưng có mấy người thực sự nhân nghĩa và hiếu đạo? Nếu như miệng đầy lễ nghĩa liêm sỉ mà trong lòng toàn “nam trộm nữ sướng” như kiểu vua Kiệt của nhà Hạ, vua Trụ của nhà Thương thì cái gọi là “đức trị” trong cuốn Binh Pháp Trị Quốc của nàng nói đó chỉ có thể là nói dối mà thôi.

Dứt lời không cho nàng đáp trả, Tiêu Phong vội thêm lời:

-Trái lại, vua tôi từ khi nhập quan một lòng vì dân, mở mang bờ cõi, tận lực làm việc nước, trong tất cả các việc trị nước, trị quan lại, trị kiện cáo, trị thủy thì lời nói luôn đi đôi với việc làm. Nhân đức và công lao của những tiên hoàng đời trước đối với dân tộc các người to lớn như trời biển, lưu danh muôn đời, rọi sáng ngàn thu! Đúng như lời người Hán các người ca ngợi “Đạo thịnh đức chí thiện, dân chi bất năng vong!”

Nữ thần y định đáp trả gì đó nhưng cuối cùng không hiểu sao nàng khựng lại, nín lặng, rồi nàng lại cười, nụ cười hiếm hoi rung động lòng người. Tiêu Phong nhìn nàng, đáng phải nhắc là, năm xưa chàng rất ít được thấy nàng cười, nhưng khi nàng cười, như bông bồ công anh bị gió thổi tan bay tới khắp nơi nơi.

Bao năm tuổi trẻ, lúc nào chàng cũng huênh hoang không có cô gái nào cầm cương được mình. Cho tới khi gặp nàng, mới thấy mình trưởng thành, chững chạc hơn nhiều. Nàng dạy chàng cách làm một người đàn ông tử tế, hiểu được giá trị của một tình yêu chân chính chứ không phải là sự hống hách, phong lưu đa tình. Nàng là một người hiểu chuyện, cho nên tới khi gặp nàng, chàng bị chinh phục hoàn toàn. Vì thế đã đem lòng thương yêu cô gái trời phú cho vẻ ngoài xinh đẹp nhưng cuộc đời lại quá nhiều buồn tủi này.

Nữ thần y nở nụ cười xong nói:

- Hay cho câu “Đạo thịnh đức chí thiện, dân chi bất năng vong.” Đúng là người sống có đạo đức có thiện tâm thì dân không bao giờ quên. Cho nên đời này đương kim hoàng đế phải giao cho Gia Cát Lượng tái thế đảm đương mới phải.

Tiêu Phong nghe nàng nhắc Cửu Dương, tự nhủ Gia Cát tái lai, người này trong Đại Minh Triều chàng chưa gặp lần nào, nhưng chàng biết nhiều về người này từ miệng Khẩu Tâm, Cửu Dương là một nhân vật rất đặc biệt.

Nhưng Tiêu Phong vờ không biết, để được nghe chính từ miệng nàng Cửu Dương là người ra sao, chàng hỏi:

-Vị nào là Gia Cát Lượng tái thế?

Nữ thần y nói:

-Ngài là viện trưởng của Hắc Viện, cũng là thất đương gia của chúng tôi.

Tiêu Phong lại nói:

-Ồ, thế không biết người này có bản lĩnh gì mà nàng cho là có thể làm được hoàng đế đây?

Nữ thần y dùng giọng nói đầy tin tưởng mỗi khi nhắc đến Cửu Dương:

-Dân nữ nhận thấy thất đương gia có tâm năng. Thứ nhất, là ngài dám nói Hán thần Hán tướng đều thuận theo sự biến đổi của thiên địa. Sau Đức hậu, chỉ có ngài mới dám nói “quê di chi, phân tại ưu, quân thần chi nghĩa.” Thứ hai, ngài là một người vô cùng can đảm. Khi triều đình dán chỉ không cho hô hào phản Thanh phục Minh, không cho in Hán văn, phát động Văn Tự Ngục, duy chỉ có trường học của ngài không những tiếp tục in sách, mà còn làm cho các học sinh nhất nhất nghe theo, tâm phục khẩu phục, quyết không phò trợ Mãn triều. Thứ ba, là ngài không sợ chết. Đại học sĩ ba lần bảy lượt nhờ ngài biên tập lại Minh sử, sửa đổi những chi tiết có liên quan tới vụ việc ái thiếp của Ngô Tam Quế là Trần Viên Viên bị Tự Thành chiếm đoạt. Ngô Tam Quế nổi giận, vì vậy mới đến hợp tác với quân Mãn Châu dưới quyền chỉ huy của Đa Nhĩ Cổn mở cửa thành cho quân Thanh tràn vào Trung Nguyên; sửa đoạn sử đó lại, trở thành Đa Nhĩ Cổn tài ba hàng phục Ngô Tam Quế nhưng câu trả lời của viện trưởng chỉ có bốn chữ thôi, là “chết cũng cự tuyệt!”

Dương Tiêu Phong gật gù, chàng cũng có nghe, năm ngoái có lần triều đình bảo viện trưởng của Hắc Viện chỉnh sửa và dạy lại một trang trong quyển Minh sử. Muốn chỉnh trang sử đó lại thành Đa Nhĩ Cổn tài ba đả bại Ngô Tam Quế rồi phá vỡ cổng thành, dẫn quân Thanh nhập quan. Nhưng rõ ràng không có vụ việc Viên Sang Sang ái thiếp Ngô Tam Quế bị Lý Tự Thành chiếm đoạt, Ngô Tam Quế tức giận mở cổng thành cho quân địch nhập quan. Không có Ngô Tam Quế tự hàng thì quân Thanh không thể nào bước qua cổng thành được. Chàng cũng tự biết triều đình muốn sửa chi tiết đó là không đúng.

Tiêu Phong còn đang miên man nghĩ ngợi, thì tiếng nữ thần y vang lên:

-Minh quân tam kì đức

Di địch phi thần khí

Thiên vận hà suy kiệt

Cửu chân lý Cửu Dương

Bốn câu nàng vừa đọc này là do các học sinh của Hắc Viện đặt ra, họ thường hay kháo nhau viện trưởng của họ mới là chân mạng thiên tử.

Nữ thần y biết trong giờ phút này nàng không còn đường tháo chạy nào nữa, cũng không ai có thể cứu nàng được. Nàng nhủ bụng cuộc sống có rất nhiều điều nghiệt ngã chờ đợi phía trước. Đôi khi, tình yêu không có nghĩa là đi cùng với nhau đến hết cuộc đời, nắm tay đi cùng trời cuối đất, nhưng tình yêu của nàng dành cho Tần Thiên Nhân sẽ không bao giờ dứt. Những rào cản có thể không làm hai người họ đến được với nhau nhưng nàng sẽ không bao giờ ngừng yêu chàng.

Nữ thần y đưa mắt hướng nhìn lên trời, nói:

-Tam ca, tứ ca, ngũ ca, lục ca, muội sẽ không cúi đầu khuất phục bọn người ngoại tộc, muội đến với các người!

Dứt lời vung tay lên, một dao đâm thẳng vào chiếc cổ thon dài trắng ngần.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.