Người Đưa Tin

Chương 35: Chương 35




PHẦN 4: NHÂN CHỨNG

Chương 39

Washington

Một tháng sau vụ ám sát Tổng thống, Uỷ ban Thượng viện tổ chức một cuộc họp. Trong bài phát biểu khai mạc, các thành viên cao cấp đảm bảo với người dân Mỹ rằng họ sẽ điều tra đến cùng và không khoan nhượng, nhưng vào cuối tuần đầu tiên, các Thượng nghị sỹ từ cả hai đảng cảm thấy bực mình vì tính thiếu trung thực của lãnh đạo các cơ quan an ninh và tình báo. Các phụ tá của Tổng thống giải thích rất chi tiết làm cách nào lực lượng Hồi giáo cực đoan toàn cầu có thể thâm nhập vào trung tâm vương quốc Thiên Chúa giáo, và làm cách nào Giáo sư Ali Massoudi tuyển mộ được một thanh niên trẻ có tên là Erich Muller và cài hắn vào Đội cận vệ Thụy Sĩ của Giáo hoàng. Nhưng khi đụng đến người vạch kế hoạch hai vụ tấn công vào Vatican - và quan trọng hơn, ai đã trả tiền các hóa đơn - các phụ tá của Tổng thống chỉ có thể đưa ra những ý kiến gián tiếp. Họ cũng không thể giải thích thoả đáng với các thành viên của Uỷ ban về sự có mặt của Gabriel Allon, một người Israel mà bây giờ đã được biết đến là một điệp viên và kẻ chuyên ám sát huyền thoại. Sau nhiều bàn bạc trong Uỷ ban, các Thượng nghị sỹ quyết định triệu tập anh để đích thân hỏi cung. Vì là người nước ngoài, anh không có bổn phận phải tuân theo lời triệu tập nên như nhiều dự đoán, anh đã từ chối xuất hiện. Ba ngày sau, anh bất ngờ đổi ý. Anh báo với các Thượng nghị sỹ rằng mình sẽ điều trần, nhưng với điều kiện phải là một cuộc gặp bí mật. Các Thượng nghị sỹ đồng ý, và yêu cầu anh đến Washinton ngày thứ năm tuần kế tiếp.

Gabriel đi một mình vào phòng điều trần kín. Khi Chủ tịch Uỷ ban yêu cầu anh đứng lên khai tên mình để ghi chép lại, anh đã thực hiện không hề do dự.

“Chủ của ông?”

“Thủ tướng nước Israel”.

“Chúng tôi có nhiều câu hỏi muốn nêu ra với ông, ông Allon, nhưng theo lời của Đại sứ nước ông, ông sẽ không trả lời những câu hỏi mà ngài nghĩ là không phù hợp”.

“Đúng vậy, thưa ngài Chủ tịch”.

Chúng tôi cũng được thông báo rằng ông muốn đọc một bài phát biểu trước khi chúng tôi bắt đầu thẩm vấn”.

“Điều đó cũng đúng, thưa ngài Chủ tịch”.

“Bài phát biểu này có liên quan đến nước các Tiểu vương quốc Arập thống nhất và mối quan hệ giữa Mỹ và họ”.

“Đúng, thưa ngài Chủ tịch”.

“Tôi muốn lưu ý ông, ông Allon. Mặc dù buổi điều trần này được tiến hành bí mật, sẽ vẫn có bản đánh máy những lời nhận xét của ông”.

“Tôi hiểu, thưa ngài”.

“Rất tốt. Ông có thể bắt đầu”.

Sau câu nói này, Gabriel nhìn xuống và bắt đầu đọc bản điều trần . Ở góc xa của phòng, một người đàn ông nhăn mặt. Hercules đã đến Thượng viện Mỹ, anh ta thầm nghĩ. Và mang theo một bao đầy tên tẩm mật đắng.

“Chúc mừng, Gabriel”, Adrian Carter nói. “Anh không thể không làm, đúng không? Chúng tôi cho anh sân khấu, còn anh sử dụng sân khấu đó để phục vụ mình thật tốt”.

“Các Thượng nghị sỹ cần biết bản chất thật sự của đế chế Arập Xêút và sự ủng hộ của nó đối với khủng bố toàn cầu. Người dân Mỹ cần được biết những đồng tiền thu được nhờ bán dầu đó đang được sử dụng như thế nào”.

“Ít nhất anh cũng nên để tên Zizi ra ngoài chuyện này”.

“Tôi có những kế hoạch khác dành cho Zizi”.

“Tốt hơn là anh không nên làm như vậy. Hơn nữa anh cũng nên để mắt canh chừng quả bóng ngay bây giờ”.

“ Canh chừng quả bóng? Câu này nghĩa là gì?”

“Đây là một lối nói ẩn dụ trong thể thao, Gabriel. Anh có chơi môn thể thao nào không?”

“Tôi không có thời gian cho thể thao”.

“Mỗi ngày trôi qua anh lại càng giống Shamron hơn”.

“Tôi sẽ xem đây là lời khen”, Gabriel đáp. “Tôi nên để mắt đến quả bóng nào?”

“Bin Shafiq”. Carter nhìn xéo qua Gabriel. “Có dấu hiệu gì của hắn chưa?”

Gabriel lắc đầu. “Còn phía ông?”

“ Chúng tôi có một chút dấu vết”.

“Có dấu vết nào mà anh có thể tiết lộ với tôi không?”

“Chưa đến lúc”.

Carter lái xe qua cầu Memorial quẹo vào đại lộ George Washington. Họ lái xe trong im lặng một vài phút. Gabriel nhìn ra cửa xe, thầm thán phục cảnh thị trấn Geortown bên kia sông.

“Tôi thấy trong lịch trình bay anh sẽ ghé qua Rome trên đường về Israel”, Carter nói. “Anh dự định thực hiện một nhiệm vụ chưa hoàn tất cho Vatican à?”

“Tôi chỉ muốn dành một chút thời gian bên Donati. Khi tôi rời Rome, ông ấy vẫn chưa tỉnh”. Gabriel nhìn đồng hồ. “Ông đang đưa tôi đi đâu, Adrian?”

“Còn mấy tiếng nữa máy bay mới cất cánh. Chúng ta có thể ghé ăn trưa ở vùng đồng quê chăn ngựa Virginia”.

“Còn bao lâu nữa thì tới nơi?”

“Khoảng một tiếng”.

Gabriel hạ ghế xuống và nhắm mắt lại.

Anh tỉnh dậy khi chiếc xe bon bon vào thị trấn nhỏ có tên Đồng Bằng. Carter lái xe chậm lại khu trung tâm thương mại nhỏ xíu; sau đó băng qua đường ray xe lửa cũ kỹ, và một lần nữa lái xe về hướng đồng quê. Con đường trông có vẻ quen thuộc với Gabriel, cũng giống như con đường nhỏ trải sỏi mà Carter đã quẹo vào cách đó hai dặm. Con đường chạy dọc theo bờ suối hẹp. Bên trái là một cánh đồng thoai thoải, ngược lên cao có một nông trại lớn mái lợp bằng đồng đã mờ xỉn và hàng hiên hai tầng. Khi Gabriel ghé thăm ngôi nhà lần trước, cây đã trụi lá còn mặt đất đang phủ đầy tuyết. Bây giờ cây sơn thù du nở rộ hoa, những cánh đồng xanh mơn mởn nhờ những lá cỏ mùa xuân mới mọc.

Một phụ nữ có mái tóc vàng óng thả đi ngựa nước kiệu ngược chiều với họ. Những chỗ sưng trên khuôn mặt cô đã xẹp xuống, và nét mặt cô đã trở lại bình thường. Ngoại trừ những quầng thâm dưới mắt, Gabriel nghĩ. Trong mắt Sarah vẫn còn vương lại dấu vết của cơn ác mộng cô đã trải qua tại ngôi nhà ván ở bang Uri. Cô cho ngựa chạy dọc theo xe một cách thuần thục và nhìn xuống Gabriel. Một nụ cười nở trên gương mặt cô, và trong giây lát cô như trở lại là người phụ nữ xinh đẹp anh nhìn thấy trên đường Q ở Washington mùa thu năm ngoái. Sau đó nụ cười nhạt dần và với hai cú thúc chính xác, cô phi nước đại qua cánh đồng về phía ngôi nhà.

“Cô ấy đã có những ngày vui vẻ và những ngày tồi tệ”, Carter nói khi nhìn Sarah phóng ngựa đi. “Nhưng tôi chắc rằng anh hiểu điều này”.

“Tôi hiểu”.

“Tôi luôn cho rằng hằn thù cá nhân là phản tác dụng nhất là đối với ngành của chúng ta, nhưng tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho Zizi vì những gì hắn gây ra cho cô ấy”.

“Tôi cũng không tha thứ”, Gabriel nói. “Tôi sẽ ghi nhớ những gì hắn đã làm”.

Họ ăn trưa trong ánh mặt trời dịu nhẹ chiếu trên hiên sau nhà. Sau đó Carter dọn dẹp chén đĩa, còn Gabriel và Sarah đi dạo cùng nhau trong khu rừng đầy bóng râm. Một nhân viên CIA cố gắng theo sau họ, nhưng Gabriel tước vũ khí của anh ta và bảo anh ta quay trở lại ngôi nhà. Sarah mặc quần, đi ủng cưỡi ngựa và khoác áo lông cừu. Gabriel vẫn mặc bộ vest màu xám lúc dự buổi điều trần của các thượng nghị sỹ. Anh cầm khẩu súng của người nhân viên trong tay phải.

“Arian có vẻ không vui vì sự xuất hiện của anh trước Ủy ban”.

“Đúng vậy”.

“Một người nào đó phải chuyển thông điệp về những người bạn Arập Xêút của chúng ta. Còn ai khác ngoài anh? Anh đã cứu được mạng sống của Tổng thống”.

“Không, Sarah, chính cô mới là người cứu Tổng thống. Có lẽ một ngày nào đó đất nước sẽ nhận ra họ có món nợ lớn với cô”.

“Tôi không muốn công khai bản thân quá sớm”.

“Kế hoạch của cô là gì?”

“Adrian chưa kể với anh à? Tôi sẽ gia nhập cơ quan. Tôi nhận ra rằng thế giới nghệ thuật có thể vẫn tồn tại mà không cần đến một người phụ trách bảo tàng”.

“Bên nào? Điệp vụ hay tình báo?”

“Tình báo”, cô đáp. “Tôi đã có đủ kinh nghiệm hoạt động cho cả đời người. Thêm nữa, sẽ không an toàn nếu tôi sớm xuất đầu lộ diện. Zizi đã cảnh cáo tôi về án phạt cho những người phản bội hắn”.

“Hắn có mạng lưới hoạt động vươn xa lắm. An ninh của cô ở Mỹ thì sao?”

“Người ta sẽ cho tôi tên và nhân dạng mới. Tôi được quyền chọn tên. Tôi tự hỏi không biết anh có cho phép tôi sử dụng tên của mẹ anh không?”

“Irene?”. Gabriel mỉm cười. “Tôi rất lấy làm vinh dự. Bà ấy giống cô - một người phụ nữa can đảm phi thường. Lần tới khi cô đến Israel, tôi sẽ cho cô đọc những gì xảy ra với bà trong chiến tranh”.

Sarah dừng bước, mân mê một bông hoa sơn thù du vừa nở rộ.

“Còn anh thì sao, Gabriel? Kế hoạch của anh là gì?”

“Tôi nghĩ cô và tôi có lẽ đi theo hai hướng khác nhau”.

“Ý anh là sao?”

“Tôi e rằng mình không thể nói gì hơn vào lúc này”.

Cô bĩu môi đập nhẹ vào tay anh. “Anh không dự định giữ bí mật với tôi từ giờ phút này chứ?”

“Giờ đây cô đang làm việc cho cơ quan Tình báo của một nước khác, tôi e rằng mối quan hệ của chúng ta sẽ phải có một số…” Anh ngừng lại tìm từ diễn đạt cho đúng bằng tiếng Anh. “Giới hạn nhất định”.

“Thôi nào, Gabriel. Chúng ta có mối dây ràng buộc vượt quá qui tắc liên lạc giữa đặc vụ của các tổ chức tình báo khác nhau”.

“Tôi thấy cô đã bắt đầu sử dụng nhuần nhuyễn những gì được huấn luyện”.

Sarah nói. “Việc này giúp tôi đỡ buồn khi sống một mình ở nông trại này”.

“Cô khỏe không, Sarah?”

“Ban ngày tôi ổn, nhưng ban đêm tôi cảm thấy rất khó khăn”.

“Cô sẽ cảm thấy như vậy trong một thời gian dài. Nhưng làm việc cho cơ quan Tình báo sẽ giúp cô dễ chịu hơn. Cô có biết họ sẽ cho cô làm việc gì không?”

“Đến Arập Xêút ”, cô nói. “Tôi đề nghị như vậy”.

Khu rừng rung chuyển vì loạt sấm từ xa. Sarah hỏi thăm về Julian Isherwood.

“Tình trạng hiện thời của anh ấy rất giống của cô”.

“Các anh đưa anh ấy đi đâu?”

“Sarah”.

“Nói đi, Gabriel”.

“Anh ta được bảo vệ tại một căn nhà cũ gần Vùng Tận Cùng ở Cornwall”.

“Còn phòng tranh thì sao?”

“Tạm thời bị đóng cửa. Việc cô rời Luân Đôn đã gây ra một vụ xì căng đan. Những anh bồi bàn tại quầy rượu của nhà hàng Green nhớ cô lắm”.

“Tôi cũng nhớ họ. Nhưng tôi nhớ đội của anh hơn”.

“Mọi người gửi lời chào”. Gabriel ngập ngừng. “Họ cũng nhờ tôi nói lời xin lỗi với cô”.

“Về việc gì?”

“Chúng tôi đã làm cô thất vọng, Sarah. Rõ ràng chúng tôi đã bị những tên trong đội an ninh của bin Shafiq hay Zizi nhìn thấy”.

“Có lẽ đó là lỗi của tôi”. Cô nhún vai. “Nhưng chuyện này không quan trọng. Tất cả chúng ta đều may mắn sống sót để mà thoát khỏi vụ này, ngoài ra còn hạ được mười lăm tên trong ngôi nhà đó. Chúng ta còn phá hỏng âm mưu ám sát Tổng thống. Được quá đi chứ, Gabriel”.

Lại một hồi sấm khác, lần này gần hơn. Sarah nhìn lên bầu trời.

“Tôi phải hỏi cô mấy điều, Sarah. Có một vài thứ tôi cần biết trước khi đóng lại quyển sách về lần hoạt động này”.

Sarah vẫn ngước mắt nhìn trời. “Anh muốn biết tôi khai gì với bọn chúng trong căn nhà ở Thụy Sĩ”.

“Tôi biết cô bị bỏ thuốc. Tôi biết có lẽ cô đã cố đẩy những ký ức đau buồn đó ra khỏi đầu mình”.

Cô nhìn anh rồi lắc đầu. “Tôi không cố quên”, cô nói. “Thật ra tôi còn nhớ từng từ”.

Những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi. Sarah dường như không chú ý. Họ đi dưới những hàng cây, Sarah lần lượt kể cho anh nghe.

Carter tiễn Gabriel đến sân bay Dulles và đưa anh qua cửa an ninh. Họ ngồi cùng nhau trong khoang ngoại giao đặc biệt chờ thông báo chuyến bay. Gabriel bỗng chú ý đến người đàn ông ngồi bên phòng đối diện: Hoàng tử Bashir, đại sứ Arập Xêút ở Mỹ.

“Đừng nghĩ về chuyện đó, Gabriel”.

“Đối đầu công khai không phải là phong cách của tôi, Adrian”.

“Có lẽ không, nhưng Bashir khá thích chuyện đó”.

Tựa như nghe được câu chuyện, ông đại sứ vụt đứng dậy, bước ngang qua phòng. Ông ta dừng trước mặt Gabriel nhưng không chìa tay ra. “Tôi nghe nói sáng nay ông thu hút được khá nhiều khán giả tại đồi toà nhà quốc hội ông Allon. Toàn những lời nói dối và tuyên truyền của dân Do Thái, nhưng kể cũng khá hài hước”.

“Buổi điều trần được giữ bí mật, Bashir”.

“Không có gì diễn ra trong thành phố này mà tôi không biết. Ông phải gọi tôi là Hoàng tử Bashir”. Viên đại sứ nhìn Carter. “Anh có chịu trách nhiệm về tiết mục xiếc ngày hôm nay không, Adrian?”

“Các Thượng nghị sỹ ra trát hầu tòa, thưa Hoàng tử. Cục không liên quan gì đến việc này”.

“Lẽ ra các anh nên làm điều gì đó để ngăn chặn chuyện ấy”.

“Đây không phải là Riyadh, thưa ngài đại sứ”.

Bashir trừng mắt nhìn Carter, sau đó quay trở lại chỗ ngồi.

“Tôi đoán mình không đủ tiêu chuẩn nằm trong kế hoạch nghỉ hưu của người Arập Xêút”.

“Gì cơ?”

“Không có gì”, Carter nói.

Mười phút sau loa phóng thanh thông báo chuyến bay của Gabriel. Carter tiễn anh đến cửa ra.

“Ồ, tôi gần như quên khuấy chuyện này. Tổng thống gọi điện đến nhưng lúc đó anh đang nói chuyện với Sarah. Ông ấy muốn ngỏ lời cảm ơn. Ông ấy bảo sẽ gặp anh vào dịp khác”.

“Nhắn hộ tôi rằng ông ấy đừng bận tâm”.

“Tổng thống cũng bảo ông muốn anh tiếp tục kế hoạch hai người đã thảo luận tại Bãi cỏ phía Nam”.

“Ông chắc không?”

“Chắc về chuyện gì?”

“Ông có chắc Tổng thống nói như thế không?”

“Chắc chắn”, Carter đáp. “Thế hai người nói chuyện gì đêm hôm đó?”

“Cuộc chuyện trò của chúng tôi mang tính chất cá nhân, Adrian, và sẽ luôn là như vậy”.

“Anh cừ lắm”. Carter nói.

Họ bắt tay; sau đó Gabriel quay bước lên máy bay.

Chương 40

Tiberias, Israel

Đêm sau đó là lễ Shabbat. Gabriel ngủ đến gần trưa rồi dậy tắm rửa, thay quần áo và chở Chiara đến thung lũng Jezreel. Họ dừng lại một chút ở Tel Megiddo để đón Eli Lavon, sau đó tiếp tục lái xe đến biển Galilee. Mặt trời gần lặn khi họ đến ngôi biệt thự đá vôi màu mật ong nằm cheo leo trên gờ đất nhìn ra biển. Shamron đón họ tại cổng trước. Khuôn mặt ông gầy và chảy xệ xuốngå, ông phải di chuyển với sự trợ giúp của chiếc gậy. Nó được làm bằng gỗ ôliu rất đẹp.

“Thủ tướng tặng nó cho tôi lúc sáng khi tôi rời trung tâm phục hồi ở Jerusalem. Tôi gần như muốn quất cây gậy vào người ông ta. Nhưng Gilah lại nghĩ cây gậy làm tôi trông nổi bật hơn”. Ông dẫn họ vào trong và nhìn Gabriel. “Tôi thấy cậu đang mặc chiếc áo của tôi. Bây giờ thì rõ ràng tôi sẽ còn sống rất lâu nữa vậy nên tôi muốn đòi lại nó”.

Gabriel cởi áo treo lên chiếc móc trong lối vào nhà. Anh nghe giọng Gilah vẳng ra từ biệt thư gọi họ vào ăn tối. Khi họ bước vào phòng ăn, Gilah đang thắp nến. Yonatan và vợ đang ở đó. Cả Rimona cùng chồng cô nữa. Ronit ngồi kế bên cha mình và khéo léo múc thức ăn vào đĩa của ông khi thức ăn được chuyền khắp bàn. Họ không nói chuyện về vụ bin Shafiq hay Vatican. Thay vào đó họ nói chuyện về buổi xuất hiện của Gabriel trước Quốc hội Mỹ. Theo vẻ chua chát trên gương mặt Shamron, có thể thấy ông không hài lòng về chuyện này. Ông nói rõ suy nghĩ của mình. Sau bữa tối, khi hai người lên sân thượng nói chuyện riêng, ông nói hẳn ra suy nghĩ của mình.

“Cậu làm đúng khi từ chối trát hầu toà lần đầu tiên, Gabriel. Đáng lẽ cậu không nên đổi ý. Chỉ cần suy nghĩ về việc cậu ngồi trước ủy ban Quốc hội, cho dù việc này nằm trong bí mật, cũng khiến tôi phải mất thêm để phục hồi sáu tháng”.

“Nơi bắt đầu cuộc chiến tranh Hồi giáo toàn cầu là Arập Xêút và chủ nghĩa Wahhabi”, Gabriel đáp. “Thượng viện cần biết điều này. Người dân Mỹ cũng vậy”.

“Cậu có thể cho họ biết suy nghĩ của mình bằng cách gửi điện bí mật. Cậu không phải ngồi đó trước mặt bọn họ trả lời những câu hỏi như một người bình thường khác được”.

Họ ngồi xuống ghế đối diện hàng lan can. Trăng tròn phản chiếu trên mặt biển Galilee êm ả, và ở đằng xa phía sau hồ là ngọn Golan sừng sững, đen sẫm chìm trong bóng đêm. Shamron thích ngồi trên sân thượng nhất vì nó hướng về phía Đông - phía quân thù. Ông đưa tay xuống dưới miếng lót ghế lấy ra hộp thuốc lá bằng bạc và chiếc bật lửa Zippo.

“Ông không nên hút thuốc, Ari”.

“Tôi đã không được hút thuốc kể từ khi ở Hadassah và trung tâm phục hồi. Đây là điếu đầu tiên kể từ đêm tôi bị tấn công”.

“Thật là tin tốt lành”, Gabriel nói.

“Nếu cậu hở một lời với Gilah về việc này, tôi sẽ đánh cậu đấy ”.

“Ông nghĩ mình lừa được Gilah đấy à? Bà ấy biết hết”.

Shamron đưa cuộc nói chuyện trở lại chủ đề buổi điều trần của Gabriel ở Washington.

“Có lẽ cậu có một động cơ chính đáng để quyết định như thế”. Shamron nói. “Có lẽ cậu muốn làm điều đó khác hơn là chỉ báo với người dân Mỹ sự thật về những người bạn Arập Xêút của họ”.

“Thế ông nghĩ động cơ chính đáng của tôi là gì?”

“Sau lần hoạt động tại Vatican, cậu đã trở thành nhân viên tình báo nổi tiếng nhất trên thế giới. Còn bây giờ…” Shamron nhún vai. “Ngành của chúng ta không ưa chuộng sự nổi tiếng. Cậu đã khiến chúng tôi gần như không thể sử dụng lại cậu trong vỏ bọc ngụy trang được nữa”.

“Tôi không nhận công việc tại Lực lượng Đặc nhiệm nữa, Ari. Thêm nữa, họ đã trao công việc đó cho Uzi”.

“Uzi là một sỹ quan giỏi, nhưng cậu ta không phải là cậu”.

“Uzi là nguyên nhân giúp Sarah Bancroft còn sống. Cậu ta đúng là người cần thiết để lãnh đạo Lực lượng Đặc nhiệm.

“Đáng lẽ cậu không nên sử dụng một cô gái Mỹ”.

“Tôi ước chúng ta có thêm hai người nữa giống cô ấy”.

Shamron dường như không còn thích thú với điếu thuốc lá. Ông bỏ điếu thuốc vào hộp và hỏi Gabriel về kế hoạch của anh.

“Tôi còn một số công việc chưa hoàn thành, bắt đầu là bức Van Gogh. Tôi đã hứa với Hannah Weinberg sẽ đem bức tranh trả lại cho cô ấy. Đây là lời hứa tôi nhất định phải giữ, cho dù bây giờ tôi đã trở thành người được nhiều người biết đến”.

“Cậu biết bức tranh đó ở đâu không?”

Gabriel gật đầu. “Tôi đã gài máy phát tín hiệu vào khung tranh khi phục chế”, anh đáp. “Bức họa đang ở trong dinh thự của Zizi tại Ile de la Cite”.

“Sau những việc đã xảy ra với cậu tại Pháp, cậu lại dự định ăn cắp một bức tranh ở Paris sao?”. Shamron lắc đầu. “Cậu lọt vào nhà anh bạn Tổng thống Mỹ của cậu còn dễ hơn là vào một trong những dinh thự của Zizi”.

Gabriel bác bỏ những lo lắng của Shamron bằng cái phẩy tay giống y như của ông.

“Sau đó thì sao?”

Gabriel im lặng.

“Ronit đã quyết định về nhà”, Shamron nói, “Nhưng tôi có cảm giác cậu sẽ rời khỏi chúng tôi một lần nữa”.

“Tôi vẫn chưa quyết định”.

“Tôi hi vọng cậu đã quyết định xong việc với Chiara”.

“Chúng tôi sẽ cưới nhau ngay khi có thể”.

“Cậu sẽ thông báo tin này với Leah khi nào?”

Gabriel trả lời ông.

“Hãy đưa Gilah đi cùng cậu”, Shamron nói. “Bà ấy đã đến thăm Leah nhiều lần khi cậu đang hoạt động. Leah cần một người mẹ trong những lúc như thế này. Và Gilah là người mẹ tuyệt vời nhất”.

Gabriel và Chiara qua đêm trong căn phòng đối diện hồ. Lúc ban mai, tất cả cùng nhau ăn sáng trên sân thượng tràn ngập ánh nắng, sau đó mỗi người đi một ngả. Yonatan đi về hướng nam để gia nhập đơn vị của mình; Rimona, đã quay trở lại làm việc tại Aman, đi về hướng nam để trở về đơn vị của cô. Gilah đi cùng Gabriel và Chiara. Họ thả Lavon xuống chỗ khai quật tại Tel Megiddo, sau đó tiếp tục đến Jerusalem.

Khi họ đến bệnh viện tâm thần trên núi Herzl, trời đã gần trưa. Giáo sư Bar-Zvi, trông thuần Do Thái với bộ râu dài, đang chờ họ tại hành lang. Họ đi tới văn phòng của ông và mất một giờ thảo luận để tìm cách tốt nhất để báo tin cho Leah. Sự nắm bắt thực tại của cô rất mơ hồ. Trong nhiều năm qua, những hình ảnh tại Viên cứ chiếu đi chiếu lại trong trí nhớ của cô, giống như đoạn video được tua đi tua lại vậy. Bây giờ cô đang bị lẫn lộn giữa quá khứ và hiện tại, có những khoảnh khắc cô được trở về với thực tại. Nhưng rồi cô lại mau chóng chìm vào những hình ảnh của quá khứ. Gabriel cảm thấy có bổn phận phải nói cho cô biết sự thật, nhưng anh muốn làm việc này theo cách ít đau đớn nhất.

“Hình như cô ấy có phản ứng với Gilah”, bác sỹ nói. “Có lẽ chúng tôi nên nói chuyện với cô ấy trước anh”. Ông nhìn đồng hồ. “Bây giờ cô ấy đang ở ngoài vườn. Đó là nơi ưa thích nhất của cô ấy. Tại sao chúng ta không nói chuyện ở đó”.

***

Leah đang ngồi trên xe lăn, dưới bóng râm của cây thông đá. Đôi bàn tay cô, đầy sẹo và bị biến dạng, cầm một cành ôliu. Mái tóc cô, từng có thời rất dài và đen huyền, bây giờ cắt ngắn và gần như bạc hết. Đôi mắt cô vẫn nhìn xa vắng khi nghe Gilah và bác sỹ nói. Mười phút sau họ rời đi. Gabriel bước dọc lối đi trong vườn và quỳ trước xe lăn, nắm lấy những gì còn sót lại của bàn tay. Chính Leah là người cất tiếng.

“Anh có yêu cô gái ấy không?”

“Có, Leah, anh rất yêu cô ấy”.

“Anh sẽ đối xử tốt với cô ấy chứ?”

Những giọt nước mắt rơi trên má anh. “Có, Leah, anh sẽ đối xử tốt với cô ấy”.

Cô ngoảnh mặt đi. “Nhìn tuyết kìa, Gabriel. Tuyết rơi thật đẹp”.

“Em nói đúng, Leah, tuyết đẹp lắm”.

“Chúa ơi, em ghét thành phố này làm sao, nhưng tuyết khiến nó trở nên xinh đẹp. Tuyết xoá sạch tội lỗi khỏi Viên. Tuyết rơi trên Viên trong khi bom đạn rơi trên Tel Aviv”. Cô quay lại nhìn anh. “Anh sẽ vẫn đến thăm em chứ?”

“Có, Leah, anh sẽ vẫn đến thăm em”.

Sau đó cô lại ngoảnh mặt quay đi. “Anh nhớ cài chặt giây an toàn cho Dani. Đường đi trơn lắm”.

“Con khỏe, em ạ. Lái xe về nhà cẩn thận nhé”.

“Em sẽ cẩn thận, Gabriel. Anh hôn em đi”.

Gabriel ghé môi hôn vết sẹo trên gò má bị tàn phá của cô và nhắm mắt lại.

Leah thì thầm. “Nụ hôn cuối”.

Những bức tường trong phòng ngủ của Gabriel treo đầy tranh. Có ba bức là do ông ngoại anh vẽ, đó cũng là những tác phẩm cuối cùng còn sót lại mà Gabriel có thể tìm được - và hơn một tá do mẹ anh vẽ. Cũng có một bức chân dung tự họa, vẽ theo phong cách của Egon Schiele nhưng không có chữ ký. Bức tranh vẽ một thanh niên có mái tóc bạc trước tuổi và gương mặt hốc hác bị ám ảnh bởi bóng dáng tử thần. Gabriel luôn nói với Chiara bức tranh là tác phẩm tự họa. Giờ đây, khi nàng nằm cạnh anh, anh nói với nàng sự thật, rằng đó là bức vẽ của Leah.

“Chị ấy vẽ bức tranh khi nào?”. Chiara hỏi.

“Ngay sau khi anh trở về từ vụ Tháng Chín Đen”.

“Tài năng của chị ấy thật đáng kinh ngạc”.

“Đúng vậy”, Gabriel nói, nhìn bức vẽ. “Cô ấy giỏi hơn anh nhiều”.

Chiara im lặng một lúc. Sau đó nàng hỏi. “Chúng ta sẽ ở đây bao lâu?”

“Có lẽ một tháng. Có lẽ một năm. Em biết những việc như thế này diễn ra như thế nào mà, Chiara”.

“Em nghĩ mình cần thêm đồ đạc”.

“Tại sao?”

“Vì chúng ta không thể chỉ sống bằng phòng vẽ và một cái giường”.

“Chúng ta có thể mà”, anh đáp. “Chúng ta còn cần gì khác nữa?”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.