Người Đưa Tin

Chương 33: Chương 33




Chương 35

Bang Uri, Thụy Sĩ

Hãy quay trở lại mái tóc của hắn. Mày nói hắn tóc ngắn phải không, Sarah? Giống tóc của tao?”

“Dài hơn một chút”.

“Màu đen?”

“Vâng”.

“Nhưng có một vài chỗ muối tiêu, đúng không? Chính xác là hai bên thái dương”.

“Vâng, hai bên thái dương của anh ta tóc muối tiêu”.

“Bây giờ đến đôi mắt. Đôi mắt hắn màu xanh, đúng không? Xanh đến mức bất thường”.

“Mắt anh ta rất xanh”.

“Gã này có tài năng đặc biệt, đúng không?”

“Anh ta có nhiều tài năng”.

“Hắn ta có khả năng phục chế tranh?”

“Vâng”.

“Mày chắc chắn là chưa từng bao giờ nghe tên hắn ta chứ?”

“Tôi nói với ông rồi. Anh ta xưng mình là Ben”.

“Tao biết rồi, nhưng hắn có bao giờ nói về mình với cái tên khác không?”

“Không, không bao giờ”.

“Mày chắc chứ, Sarah?”

“Chắc chắn. Anh ta gọi mình là Ben”.

“Đó không phải là tên thật của bắn, Sarah. Tên của hắn là Gabriel Allon. Hắn ta là kẻ chuyên giết người Palestine. Bây giờ hãy kể tao nghe chuyện gì đã xảy ra sau khi hắn đến căn nhà tại Georgetown”.

Có tấm bảng hiệu tại lối vào con đường dẫn đến ngôi nhà ván. Tấm bảng ghi dòng chữ “CÁ NHÂN”. Cổng an ninh nằm thụt vào 300 mét giữa những hàng cây. Gabriel và Navot di chuyển ở một phía con đường, Mikhail và Yaakov phía bên kia. Tuyết rơi dày đặc dọc rìa con đường dẫn lên hẻm núi, nhưng trong rừng cây thì ít tuyết hơn. Nhìn qua cặp kính hồng ngoại, tuyết ánh lên màu xanh phản quang ma quái trong khi thân những cây thông và linh sam có màu đen nổi bật. Gabriel bò lên phía trước, cẩn thận tránh những cành cây bị rớt xuống có thể tạo thành tiếng rắc dưới sức nặng bước chân anh. Sự im lặng đầy chết chóc bao phủ khu rừng. Gabiel nghe được tiếng tim mình đập thình thịch trong lồng ngực và âm thanh tiếng bước chân của Navot ngay đằng sau. Anh nắm khẩu Beretta bằng cả hai tay - hai bàn tay không đeo găng.

Di chuyển trong rừng được mười lăm phút thì anh nhìn thấy ngôi nhà đầu tiên. Có ánh đèn từ cửa sổ tầng trệt, còn trên lầu hai chỉ có một cánh cửa sổ phản chiếu ánh sáng. Những tên lính gác đang trú lạnh trong một chiếc xe jeep. Động cơ xe đang chạy, nhưng đèn pha xe đã tắt. Cửa đang mở.

“Cậu bắn có tốt không, Mikhail?”

“Được”.

“Tên nào cậu hạ được nhanh nhất từ góc đang đứng?”

“Tên tài xế”.

“Khoảng cách gần 50 bộ, Mikhail. Cậu có thể hạ hắn gọn gàng không?”

“Tôi có thể giết được hắn”.

“Bắn vào đầu, Mikhail. Chúng ta cần hạ bọn chúng thật êm thấm”.

“Tôi làm được”.

“Cậu ngắm đi rồi đợi hiệu lệnh của tôi. Chúng ta sẽ bắn cùng một lúc. Chúa cũng chẳng giúp được chúng ta nếu bắn trượt”.

“Thế là Allon yêu cầu mày giúp hắn?”

“Vâng”.

“Và mày đồng ý?”

“Đúng vậy”.

“Ngay lập tức?”

“Đúng vậy”.

“Không do dự”.

“Không”.

“Tại sao không?”

“Bởi vì bọn mày độc ác. Vì tao ghét bọn mày”.

“Mày cẩn thận cái miệng đấy”.

“Mày muốn nghe sự thật mà”.

“Sau đó chuyện gì xảy ra?”

“Tao bỏ việc tại bảo tàng Phillips và chuyển đến Luân Đôn”.

Gabriel ngắm kỹ tên đang ngồi ghế sau.

“Cậu sẵn sàng chưa, Mikhail?”

“Sẵn sàng”.

“Bắn hai phát, theo hiệu lệnh của tôi. Năm, bốn, ba, hai…”

Gabriel kéo cò súng hai lần. Bốn lỗ thủng xuất hiện gần như ngay lập tức trên cửa kính chiếc xe jeep. Anh lao nước rút dọc con đường xuyên qua lớp tuyết dày đến đầu gối, Navot theo bén gót, rồi tiến về chiếc xe một cách cẩn thận, tay giơ khẩu Beretta. Mikhail bắn được hai phát chết người vào đầu tên tài xế, nhưng gã mà Gabriel bắn chỉ bị trúng vào má và ngực trên nên vẫn chưa chết hẳn.

Gabriel bắn hắn thêm hai phát xuyên qua lớp cửa kính sau xe, sau đó đứng bất động trong giây lát, mắt quét khắp địa hình tìm xem có dấu hiệu nào cho thấy sự hiện diện của họ đã bị lộ không? Chính Navot là người nhìn thấy tên lính gác đang bước ra khỏi rừng cây ở cánh trái ngôi nhà, còn Mikhail là người hạ gục hắn bằng một phát đạn duy nhất vào đầu, khiến máu và óc phụt ra tung tóe trên lớp tuyết trắng trinh nguyên. Gabriel quay người băng qua khu đất trống tiến về phía ngôi nhà, theo sau là ba đồng đội của mình.

“Hãy kể tao nghe về gã Julian Isherwood này”.

“Julian là một người rất ngọt ngào”.

“Hắn ta người người Do Thái à?”

“Tôi chưa bao giờ hỏi nên không biết”.

“Julian Isherwood là điệp viên lâu năm của Cục Tình báo Israel phải không?”

“Tôi không biết”.

“Vậy thì sau khi rời khỏi bảo tàng Phillips, mày đến làm trợ lý giám đốc ngay lập tức cho Julian Isherwwod à?”

“Đúng vậy”.

“Nhưng mày là dân không chuyên. Mày được huấn luyện vào thời gian nào?”

“Vào ban đêm”.

“Ở đâu?”

“Tại ngôi nhà nông thôn phía Nam Luân Đôn”.

“Ngôi nhà nông thôn này nằm ở đâu?”

“Tôi nghĩ là ở Surrey. Tôi chưa bao giờ nhớ được tên ngôi làng”.

“Đó có phải là căn nhà an toàn cố định của bọn Israel không?”

“Một căn nhà thuê. Rất tạm bợ”.

“Có những người khác ngoài Allon chứ?”

“Vâng”.

“Chúng sử dụng những người khác để giúp huấn luyện mày à?”

“Vâng”.

“Cho tao biết tên bọn chúng”.

“Một số người từ Tel Aviv sang, nhưng họ không cho biết tên”.

“Còn những thành viên khác trong đội Luân Đôn của Allon thì sao?”

“Ông muốn biết gì về bọn họ”.

“Cho tao biết tên của bọn chúng”.

“Làm ơn đừng bắt tôi làm điều này”.

“Cho tao biết tên bọn chúng, Sarah”.

“Làm ơn, đừng ép tôi”.

Hắn đánh cô mạnh đến nỗi đẩy cô té ngửa khỏi ghế. Cô khuỵu ở đó một lát, còng tay bấm sâu vào cổ tay, trong khi hắn gào lên đòi cô tiết lộ tên.

“Nói cho tao biết tên của bọn chúng, Sarah. Tất cả các tên”.

“Có một người tên là Yaakov”.

“Còn ai khác nữa?”

“Yossi”.

“Cho tao một cái tên khác, Sarah”.

“Eli”.

“Tên khác”.

“Dina”.

“Tên khác”.

“Rimona”.

“Đây cũng là những đứa theo mày đến Saint-Bart phải không?”

“Đúng vậy”.

“Ai là gã lần đầu tiếp cận mày trên bãi biển tại Saline?”

“Yaakov”.

“Ai là người phụ nữ để lại tin nhắn trong phòng tắm cho mày tại nhà hàng ở Saline?”

“Rimona”.

“Ai là cô gái bị tật chân đến nhà hàng Le Tetou ngay trước khi mày vào nhà vệ sinh?”

“Dina”.

“Bọn chúng đều là người Do Thái phải không”.

“Điều này khiến mày ngạc nhiên à?”

“Còn mày thì sao, Sarah? Mày có phải là người Do Thái không?”

“Không, tao không phải là người Do Thái”.

“Thế thì tại sao mày giúp bọn chúng?”

“Vì tao ghét bọn mày”.

“Ừ, và mày hãy nhìn xem mày phải lãnh hậu quả gì”.

Họ gặp thêm một tên lính gác nữa trước khi vào được ngôi nhà. Hắn đang đi phía bên phải họ, đến khúc cua, hắn ngu ngốc bước ra chỗ trống với vũ khí giắt bên hông. Gabriel và Mikhail nổ súng cùng lúc. Những phát súng im lặng do gắn nòng giảm thanh, nhưng tên lính gác thét lên đau đớn khi loạt đạn trúng ngực hắn. Hai gương mặt, giống hình nộm trong khu tập bắn thử, đột ngột xuất hiện trong những ô cửa sổ được chiếu sáng - một tên ở tầng trệt ngay trước mặt Gabriel, tên thứ hai ở trên lầu chỗ đỉnh mái nhà. Gabriel hạ gục tên ở cửa sổ lầu một trong khi Mikhail chăm sóc tên ở cửa sổ lầu hai.

Bây giờ họ không còn yếu tố bất ngờ nữa. Gabriel và Mikhail vừa lên nòng súng vừa lao qua khoảng sân dài ba mươi bộ về phía cửa trước. Yaakov có nhiều kinh nghiệm thâm nhập chỗ trú ẩn của bọn khủng bố tại Bờ Tây và dải Gaza nên chạy trước dẫn đường. Anh ta không thèm đếm xỉa đến chốt cài cửa. Thay vì vậy, anh ta xả một loạt đạn vào giữa cửa tiêu diệt bất cứ tên nào đang ở phía bên kia cửa, sau đó bắn văng khóa và rầm cửa bằng gỗ. Navot, người to lớn nhất trong bốn người, quăng thân hình của mình đập vào cánh cửa, khiến cánh cửa đổ sập như quân cờ đôminô.

Ba người kia ngay lập tức đặt chân lên sảnh vào nhà. Gabriel canh chừng không gian bên trái, Yaakov chính giữa, còn Mikhail bên phải. Gabriel, vẫn đang đeo kính hồng ngoại, nhìn thấy gã anh bắn hạ qua lớp cửa sổ đang nằm giữa vũng máu trên sàn nhà. Yaakov và Mikhail nổ súng ngay lập tức, và Gabriel nghe tiếng thét của hai tên khác vừa bị bắn hạ. Họ tiến sâu hơn vào ngôi nhà, tìm thấy bậc thang dẫn xuống tầng hầm, và đi xuống. Chúng ta sẽ bắt đầu từ chỗ đó, Gabriel đã nói. Những kẻ tra tấn luôn thích làm công việc của mình dưới đất.

Cô đang kể lại cho hắn ngày diễn ra vụ bán tranh thì nghe có tiếng náo loạn trên lầu. Muhammad khiến Sarah im miệng bằng cách tát mạnh vào mặt cô, sau đó đứng dậy, tay cầm súng, di chuyển nhanh chóng về phía cửa. Vài giây sau cô nghe tiếng thét, tiếng la hét và tiếng chân nặng nề trên bậc cầu thang. Muhammad quay người lại, dí súng vào mặt cô. Sarah, tay vẫn đang bị còng cứng vào bàn, cúi đầu xuống theo phản xạ giữa hai tay khi hắn nổ hai phát súng. Trong căn phòng nhỏ tiếng súng nghe như tiếng đại bác. Loạt đạn xé toang lớp không khí ngay trên đầu Sarah và ghim vào bức tường phía sau lưng.

Muhammad thét lên trong cơn thịnh nộ khi thấy Sarah thoát khỏi loạt đạn của mình, và bước lên một bước nữa, tiếp tục nhả đạn. Đột nhiên cánh cửa đổ sầm xuống như bị văng ra do bom nổ. Cánh cửa đập vào lưng Muhammad khiến hắn đổ nhào xuống sàn. Khẩu súng vẫn nằm trong tay Muhammad. Hắn gượng dậy, quỳ trên một đầu gối đưa súng ngắm bắn cô một lần nữa trước khi hai người đàn ông kịp lao qua cánh cửa, khuôn mặt trùm kín. Bọn họ bắn hạ Muhammad. Họ nã súng vào người Muhammad cho đến khi không còn viên đạn nào nữa.

Họ tháo còng tay và cùm cho Sarah, dìu cô qua thi thể của những người đã chết. Khi ra ngoài trời, cô lao vào vòng tay của Gabriel như một đứa trẻ. Anh đưa cô qua khu đất trống phủ đầy tuyết, qua con đường nhỏ dẫn tới đường cái, nơi Lavon và Moshe đang chờ trong hai chiếc xe hơi. Vẻ tĩnh lặng của khu rừng bị xáo trộn bởi tiếng khóc rưng rức của cô.

“Tôi phải nói cho bọn chúng nghe nhiều chuyện”.

“Tôi biết”.

“Bọn chúng đánh tôi. Bọn chúng bảo sẽ giết tôi”.

“Tôi biết, Sarah. Tôi đã nhìn thấy căn phòng”.

“Bọn chúng biết về anh, Gabriel. Tôi đã cố…“

“Không sao đâu, Sarah. Đó là lỗi của chúng tôi. Chúng tôi đã làm cô phải như thế này”.

“Tôi xin lỗi, Gabriel. Tôi thật lòng xin lỗi”.

“Không, Sarah. Đừng như vậy”.

“Tôi lại nhìn thấy hắn”.

“Ai?”

“Bin Shafiq”.

“Hắn ở đâu?”

“Ở Zurich. Hắn vẫn chưa xong việc, Gabriel”.

“Hắn nói gì?”

“Hắn sẽ tấn công Vatican một lần nữa”.

Chương 36

Zug, Thụy Sĩ

Hai thành viên trong đội theo dõi của Navot kịp băng qua biên giới Ý về hướng nam trước khi tuyết bít lối ra khỏi núi. Hai người khác đi về hướng đông và tiến vào nội địa Áo. Navot đi cùng với Moshe sang Paris để thiết lập hệ thống an ninh bảo vệ Hannah Weinberg. Gabriel đưa Sarah rời khỏi Zug bằng đường bay cá nhân. Họ ngồi sát bên nhau như đôi tình nhân. Gabriel vừa lái xe vừa vòng tay quanh vai cô, còn Sarah úp khuôn mặt đẫm nước mắt vào cổ anh. Lúc 4 giờ 30 phút, máy bay lao vào những đám mây rồi biến mất. Carter và Gabriel không đi trên chuyến bay này.

“Được rồi Gabriel, tôi đang lắng nghe đây”.

“Sarah đã gặp bin Shafiq ở Zurich. Hắn nói sẽ tấn công Vatican một lần nữa”.

Carter khẽ chửi thề.

“Hôm nay Tổng thống của các ông sẽ đến Rome, đúng không?”.

“Đúng vậy”.

“Theo lịch trình thì mấy giờ ông có mặt tại Vatican?”

“Đầu giờ trưa”.

“Giờ nào cũng có chuyến bay từ Zurich đến Rome. Nếu khẩn trương chúng ta có thể bắt kịp chuyến bay lúc bảy giờ”.

“Anh lái xe đi”, Carter nói.

Gabriel nổ máy xe và hướng về phía Zurich. Carter gọi điện cho Tổng hành dinh CIA yêu cầu được nói chuyện với người đứng đầu Cục Tình báo Hoa Kỳ.

***

Carter nói chuyện điện thoại suốt trong ba mươi phút đầu của chuyến đi. Khi những ánh đèn thành phố Zurich thấp thoáng hiện ra giữa lớp sương mù phía bắc hồ, anh ta ngưng điện thoại và nhìn Gabriel.

“Sarah sẽ tiếp đất tại căn cứ bay Ramstein trong vòng một tiếng nữa. Cô ấy sẽ được đưa đến bệnh viện quân sự Mỹ để khám toàn diện”.

“Bác sỹ của anh nói gì?”

“Tình trạng của cô ấy giống như anh. Mặt bị trầy và dập. Bị chấn động nhẹ. Mắt trái bị thương tổn. Bụng bị thương nặng. Hai xương sườn bị nứt. Hai ngón chân cái bị gãy. Tôi không hiểu sao chúng lại dã man như vậy”.

“Bọn chúng kéo lê cô ấy xuống các bậc thang”.

“À, còn chứng giảm nhiệt. Tôi đoán có thể do bị nhốt trong thùng xe. Dù sao đi nữa, mọi chuyện có thể còn tệ hơn. Cô ấy còn sống sót là may mắn lắm rồi”.

“Hãy đảm bảo luôn có người bên cạnh Sarah”, Gabriel nói. “Nhỡ đâu cô ấy vô tình phun ra những bí mật của chúng ta với các bác sỹ tại Ramstein”.

“Không phải lo, Gabriel. Cô ấy đang được chăm sóc bởi những đôi tay thành thạo”.

“Cô ấy bảo mình đã khai ra những bí mật”.

“Dĩ nhiên cô ấy phải khai ra. Bố khỉ, đến tôi cũng còn phải khai nữa là”.

“Ông nên nhìn căn phòng đó”.

“Nói thật, tôi mừng là mình không nhìn thấy. Tôi không thành thạo loại công việc đó. Thỉnh thoảng tôi lại thấy tiếc nuối những ngày tươi đẹp thời Chiến Tranh Lạnh, khi tôi không phải dính dấp đến những thứ tra tấn, máu me”. Carter nhìn Gabriel. “Tôi đoán những thứ này luôn đi đôi với công việc của anh, đúng không?”

Gabriel phớt lờ câu hỏi. “Sarah kể với chúng mọi thứ để có thêm thời gian. Vấn đề ở đây là trước khi chúng tôi đến, Muhammad đã kịp báo cáo bất cứ điều gì trong lời khai của Sarah cho cấp trên của hắn trước chưa?”

“Anh có quyển sổ tay của hắn đấy không?”

Gabriel vỗ nhẹ vào túi trên chiếc áo khoác bằng da.

“Chúng tôi sẽ hỏi Sarah sau khi cô ấy phục hồi”.

“Có thể cô ấy không nhớ hết những gì đã kể với chúng. Cô ấy bị đánh thuốc mê”.

Họ nín lặng một lúc lâu. Mặc dù vẫn còn sớm, trên đường đã có xe của những người phải đi làm xa. Những nhà tài chính Thụy Sĩ chăm chỉ, Gabriel thầm nghĩ. Anh tự hỏi không biết bao nhiêu người trong số này làm việc cho những công ty có liên quan đến Tập đoàn AAB tại Riyadh, Geneva, và những nơi khác.

“Ông có nghĩ họ sẽ cho tôi lên máy bay không, Adrian?”

“Gustav đảm bảo với tôi chúng ta sẽ không gặp rắc rối khi lên máy bay”.

“Có lẽ anh thì không sao. Nhưng tôi có một quá khứ không mấy sáng sủa tại Zurich”.

“Ông có quá khứ đầy màu sắc ở khắp nơi. Đừng lo, Gabriel. Họ sẽ để cho anh lên máy bay”.

“Anh chắc chắn là cậu bạn Gustav của anh giữ mọi thứ yên ắng chứ?”

“Giữ cho cái gì yên ắng?”

Carter mỉm cười mệt mỏi. “Trong khi chúng ta đang nói chuyện này thì một đội dọn dẹp đã lên đường đến Uri. Gustav sẽ đảm bảo bí mật về nơi đó cho tới khi đội đến. Rồi sau đó…”. Ông ta nhún vai. “Sẽ như chưa từng có chuyện gì xảy ra”.

“Các ông xử lý ra sao với các xác chết?”

“Chúng tôi không chỉ có những nơi giam cầm bí mật ở Đông u. Bọn chúng sẽ được chôn cất tử tế, mặc dù không xứng đáng được như vậy. Có lẽ một ngày nào đó, khi cuộc chiến vô tận này chấm dứt, chúng tôi có thể báo với người thân bọn chúng đi nhận xương cốt”. Carter vuốt thẳng ria mép. “Các anh cũng có một cái đúng không?”

“Cái gì?”

“Nghĩa trang bí mật? Ở đâu đó trong thung lũng Gioócđan?”

Gabriel nhìn hồi lâu vào kính chiếu hậu, nhưng không nói lời nào.

“Bao nhiêu thi thể, Gabriel? Anh nhớ không?”

“Dĩ nhiên tôi nhớ”.

“Vậy thì bao nhiêu? Đội dọn dẹp cần phải biết nên tìm ở đâu”.

Gabriel nói cho Carter hay. Hai thi thể trong chiếc Jeep. Hai tại bãi đất trống trước ngôi nhà. Một tại cửa sổ tầng một. Một tại cửa sổ tầng hai. Hai tại sảnh trung tâm. Hai tại cuối cầu thang. Và Muhammad.

“Mười một tên”, Carter nói. “Chúng tôi sẽ ghi nhớ tên từng đứa, sẽ tìm ra chúng là ai và tìm hiểu xem chúng đang âm mưu làm chuyện gì. Có thể nói tối nay các anh đã xóa sổ được một nhà tù lớn cùng một tên cấp cao trong tổ chức của bin Shafiq”.

“Chúng tôi vẫn chưa tìm được kẻ chúng tôi muốn”.

“Có điều gì đó mách bảo tôi rằng rồi anh sẽ tóm được hắn”.

“Ít nhất hai tên trong số chúng là người châu u. Uzi nghe bọn chúng nói chuyện bằng tiếng Đức giọng Thụy Sĩ”.

“Tôi e rằng bọn chúng vẫn phải bị chôn chung với những tên chiến sỹ Hồi giáo. Tôi nghĩ bọn chúng cũng muốn điều đó”. Carter liếc nhìn đồng hồ. “Anh không lái xe nhanh hơn được à?”

“Tôi đang chạy ở tốc độ tám mươi cây số, Adrian. Ông kể với Cục Tình báo đến mức nào?”

“Tôi báo với họ là chúng ta đang có bằng chứng rất rõ ràng rằng những lực lượng Hồi giáo toàn cầu đang có âm mưu tấn công Tổng thống tại Vatican trưa nay. Tôi nhấn mạnh đến chữ ‘bằng chứng rõ ràng’. Cục Tình báo đã nhận được thông điệp. Tôi hi vọng được gặp Tổng thống một lúc vào cuối sáng nay. Ông ấy đang ở nhà của ngài đại sứ”.

“Ông ấy có thể hủy buổi gặp gỡ đó”.

“Chuyện đó sẽ không xảy ra”, Carter đáp. “Vatican đã trở thành biểu tượng dễ thấy nhất trên thế giới về tính nguy hiểm của khủng bố Hồi giáo. Tổng thống sẽ không bỏ qua cơ hội củng cố thông điệp của mình tại đó”.

“Lucchesi sẽ cằn nhằn bên tai ông ấy”.

“Tổng thống đã chuẩn bị tinh thần rồi”, Carter nói. “Về phần an ninh, Cục Tình báo đang sắp xếp với phía Ý để thay đổi kế hoạch di chuyển của Tổng thống. Trùng hợp là họ đã nghĩ về chuyện này trước khi nhận được cuộc gọi của tôi. Rome là một mớ hỗn độn. Người ta đoán là hôm nay sẽ có khoảng hai triệu người ra đường”.

“Thế thì làm sao Tổng thống đến Vatican được?”

“Đoàn ô tô hộ tống các nguyên thủ quốc gia thường tiến để tới Toà thánh qua cổng Thánh Anne, sau đó đi qua Via Belvedere vào sân San Damaso. Ở đó chỉ huy đội lính cận vệ Thụy Sĩ sẽ gặp và hộ tống ông vào cung điện Thánh Tông đồ. Các nhân viên an ninh của Tổng thống sẽ phải ở ngoài sân, đó là nghi thức tại Vatican. Nguyên thủ quốc gia đi lên một mình, chỉ được bảo vệ bởi lính cận vệ. Nhưng tôi sẽ tiết lộ với cậu một bí mật. Cục Tình báo luôn cài một vài người tại bữa tiệc chính thức - những chàng trai Thiên Chúa giáo dễ thương muốn gặp mặt Đức Thánh Cha”.

“Vậy ông dự định sẽ thay đổi như thế nào?”

“Tổng thống sẽ bay đến Vatican và đáp xuống sân bay của Giáo hoàng”.

“Sân bay đó ở góc xa phía Tây, ngay đối diện tường. Nếu có ai đó chờ sẵn với một khẩu phóng tên lửa nữa…”

“Cục Tình báo nói sẽ bảo vệ khu vực ấy”.

“Bên ông dự định cài bao nhiêu chàng trai dễ thương theo đạo Thiên Chúa trong đoàn đại biểu chính thức của Tổng thống?”

“Nhiều hơn thường lệ”. Carter nhìn đồng hồ lần nữa. “Có lẽ chúng ta nên vào sân bay trong vài phút tới. Langley đặt chúng ta ngồi hai chỗ khác nhau”.

“Ông xấu hổ vì tôi à, Adrian?”

“Thực ra là chưa bao giờ tự hào đến như thế khi được hợp tác cùng với anh. Anh và những chàng trai của anh đã cho thấy lòng can đảm tuyệt vời khi thâm nhập ngôi nhà đó”.

“Chúng tôi không được lựa chọn, Adrian. Chúng tôi không bao giờ được quyền lựa chọn”.

Carter nhắm mắt một lúc. “Anh biết đấy, có thể bin Shafiq chỉ nói khoác, hay bịp bợm vì một lí do nào đó”.

“Tại sao hắn lại phải nói dối, Adrian? Hắn dự định sẽ giết chết cô ấy mà, nên điều hắn nói chắc chắn là sự thật”.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.