Ngục Thánh

Chương 146: Q.3 - Chương 146: Ngục Thánh ngoại truyện: Chuyện của hoa - Trà Kép (2)




Tôi vốn dự định kỳ nghỉ phép của mình sẽ diễn ra như bao năm vẫn vậy: dạo qua nhiều thành phố trên lục địa Băng Thổ, ngắm cảnh và uống rượu cùng Đại Bác, thi thoảng chạy bán sống bán chết vì ông bạn gây tai họa với các cô gái. Nhưng kỳ nghỉ phép năm nay giới hạn ở Hoàng Hôn Cảng bởi ở đây có Mục Á. Tôi đang hẹn hò với em. A, chào các vị, tôi lại kể chuyện cho các vị đây! Tôi là Khai Y, Xuy Hạ Khai Y.

Hơn mười năm kể từ lần yêu đương đầu tiên, tôi mới lại có cảm giác hạnh phúc xen lẫn hồi hộp khi dắt tay Mục Á, thi thoảng tự huyễn mình là gã đực rựa ghê gớm nhất thế giới và có thể làm mọi thứ vì yêu. Nếu các vị hỏi Đại Bác, gã sẽ kể chi tiết vụ nửa đêm tôi leo cây mò vào phòng bạn gái bất chấp gia đình nàng ngăn cấm, nắm chặt tay nàng thề thốt những lời chắc như băng vĩnh cửu, sau đấy cha nàng vung kiếm đuổi chí chết vì tưởng tôi là quân ăn cướp. Yên tâm, Đại Bác sẽ kể luôn cả việc tôi nhảy xuống bị rào sắt kéo toạc quần nhưng vẫn hông hống mồm “Tôi yêu em!” với bạn gái, trong khi cha nàng khua khoắng kiếm chửi rủa “Thằng mất dạy!”. Ha ha! Tôi yêu cô bạn gái đầu đời thế đấy! Bây giờ với Mục Á, tôi cũng có những cảm xúc tương tự thậm chí mãnh liệt hơn. Điểm khác biệt duy nhất là chúng bó chặt trong tâm tưởng thay vì thể hiện tay chân như thời hăng máu. Sức mạnh của tuổi tác là vậy.

Nhưng hạnh phúc với em bao nhiêu, tôi cũng bực bội bấy nhiêu. Là thật đấy các vị! Nếu các vị - những gã đàn ông – có thể hẹn hò với Mục Á, các vị sẽ hiểu cảm giác của tôi.

Trong số những thử thách có thể đánh quỵ đàn ông thì chiến tranh đứng đầu bảng, kế đến là hẹn hò với Hạ Nga Chi. Cứ tưởng tượng cô gái mà các anh yêu phải dự tiệc suốt ngày, tay ôm tay ấp với bọn đàn ông khác, thậm chí là ông già đáng tuổi bố mình, các vị chịu được không? Hạ Nga Chi có quyền từ chối lên giường nhưng lý thuyết khác xa thực tế, họ không thể từ chối mãi. Xứ Băng Thổ hoang dã, chuyện yêu đương giường chiếu không phải vấn đề lớn nhưng cũng chẳng mấy gã đàn ông chịu được chuyện kể trên. “Rộng lượng”, “tha thứ”, “độ lượng” hay mấy loại từ ngữ rất kêu rất cao thượng nào đấy chỉ có giới hạn, chẳng thể nào khỏa lấp tính ích kỷ của đàn ông. Mục Á là bạn gái tôi, nhưng Đại Bác cũng có thể ngủ với em nếu dám chi một núi tiền cho Cao Lầu (gã đủ khả năng vì là Đạo Chích Không Trung nổi tiếng). Tất nhiên Đại Bác không làm vậy, gã chưa ngựa giống tới mức đó. Các vị, những anh chàng máu nóng, những quý ông kiêu hãnh, liệu các vị có chịu được?

Được một tuần hẹn hò với Mục Á, tôi gặp ông chủ Đông Môn Cao Lầu và đề nghị chuộc em, số tiền chuộc khổng lồ nhưng tôi dư sức lo liệu. Vấn đề ở chỗ Cao Lầu không nhả Mục Á. Em là Hạ Nga Chi đứng đầu thành phố, một tháng có thể kiếm gấp rưỡi hoặc gấp đôi số tiền chuộc cộng thêm vô số lợi tức khác, chẳng ông chủ nào muốn em ra đi. Dù biết danh tính của tôi nhưng ông chủ Đông Môn Cao Lầu vẫn lắc đầu từ chối:

-Tôi hiểu Múy không vui, nhưng đây là luật, mong Múy không vi phạm. Tôi biết quan hệ giữa hai người. Tôi sẽ tạo điều kiện cho Mục Á, nhưng tôi không thể đảm bảo cô ấy không cần lên giường với ai. Đây là ngành công nghiệp, chúng tôi sống nhờ chuyện giường chiếu, vả lại Mục Á chưa hết hạn hợp đồng với chúng tôi, mong Múy hiểu.

Thế đó! Tôi phải chờ ít nhất hai năm. Dù Mục Á hứa sẽ từ chối hết mức có thể nhưng hai năm quá dài, quá thử thách với một gã đàn ông. Chẳng biết từ bao giờ mà trong tôi hình thành tính ích kỷ; mỗi lần đi chơi cùng Mục Á, tôi ôm ấp em cứ như thể ngày mai sẽ là tận thế để rồi cuối buổi lại nắm tay em thật chặt, dùng dằng mãi không buông. Một tối nọ, khi cùng Mục Á dạo quanh khu chợ trời dưới hàng cây lá kim, tôi liên tục ngó đồng hồ dù còn lâu nữa em mới phải về Cao Lầu, thấp thỏm như đứa trẻ con sợ hết giờ đi chơi. Thấy vậy, Mục Á phì cười:

-Đừng vậy chứ, anh là quý tộc đấy! Phải ra dáng quý tộc chứ? Mà mấy hôm trước anh gặp ông chủ Cao Lầu? Sao ngốc vậy?

-Ngốc? – Tôi ngạc nhiên – Tôi yêu em mà, Mục Á?! Sao tôi chịu được cảnh em đi uống rượu tối ngày với người khác?

Mục Á cười mỉm, bàn tay thanh tú vuốt tóc:

-Nhưng anh có chắc em yêu anh nhiều bằng anh yêu em không? Hai bên không tương đương thì sẽ chẳng đi đến đâu cả. Chúng ta đâu biết nhiều về nhau, phải chứ?

Tôi hơi chột dạ. Mục Á nói đúng, tôi quen em qua những lần gặp gỡ chóng vánh lúc chạng vạng sáng, giữa không gian đầy mùi rượu bia thuốc lá và một cuộc làm tình, hoàn toàn chưa có nổi dăm câu trò chuyện tử tế. Thực tình tôi không muốn dẫm vết xe đổ như đã từng với nàng công chúa Thượng Cổ hay bao cô gái trước đây. Tôi hỏi:

-Tại sao em yêu tôi, Mục Á?

Mục Á mua que kem đôi từ người bán rong. Em bẻ nửa đưa cho tôi, sau trả lời:

-Vì con người anh…

Tôi cười tươi đoạn ăn kem, Mục Á tiếp lời:

-…là con cả dòng họ Xuy Hạ, cháu ruột hoàng đế Băng Hóa, thuộc hàng quý tộc đẳng cấp cao nhất, phụ nữ ai chẳng thích anh? Có ngu mới từ chối!

Cục kem đang trôi xuống cổ họng tôi bỗng dưng lạnh toát. Nhiều cô gái từng đến với tôi vì những lý do kể trên và cũng bởi điều đó mà tôi chia tay họ. Em đang thật lòng hay đùa cợt? Lẽ nào em cũng giống họ? – Tôi phân vân rồi suy tính nghiêm túc hơn chuyện tình cảm với Mục Á. Tôi nhìn Mục Á, em quay đi nhìn trời ngắm mây, đôi mắt sắc của em thi thoảng liếc sang cùng nụ cười tinh quái. Em thực khó hiểu.

Nhưng quả thật Mục Á là người con gái kỳ lạ nhất tôi từng gặp. Thời gian đầu hẹn hò, các cặp đôi luôn kiếm chỗ riêng tư để tận hưởng cảm giác ngắm nghía nhau, sau đấy thủ thỉ mấy câu nói lãng mạn mà họ tự nghĩ ra hoặc cóp nhặt từ ai đó, cuốn sách nào đó hoặc câu chuyện nào đó (rồi tự nhận là của mình! Ha ha!). Nhưng Mục Á khác, em rủ tôi đi dạo, đi chợ trời, đi lang thang bên rìa những cánh rừng phía nam Hoàng Hôn Cảng, đi dọc bờ sông chạy ngoằn ngoèo qua thành phố, đi tản bộ qua những cung đường vòng quanh sườn núi phía tây và nằm dưới bóng các tòa lâu đài vốn thuộc về gia đình quý tộc. Em biến buổi hẹn hò thành chuyến vận động thân thể, đôi lúc em nghỉ vì quá mỏi chân, sau lại đứng dậy cất bước. Tôi dám chắc em biết rõ mọi ngả lối ở Hoàng Hôn Cảng và từng đi thế này khá nhiều. Nhưng mỗi lần như vậy, tôi luôn thấy gương mặt em rạng rỡ đẹp hơn cả khi trang điểm. Tôi thắc mắc, em trả lời:

-Đường cũ nhưng người không cũ, mà người cũ thì chuyện không cũ, mà nếu chuyện cũ thì thời gian không cũ. Luôn có thứ gì đấy vừa sinh ra, luôn có điều nào đấy vừa đặt chân tới thế giới này. Chẳng bao giờ nhàm chán, chỉ là bản thân anh thấy chán hay không thôi.

Tôi ngạc nhiên. Không phải vì yêu Mục Á mà tôi tâng bốc nhưng thực tình chẳng mấy cô gái suy nghĩ như em, ngay chính tôi cũng hiếm khi nhìn nhận cuộc sống như vậy. Nếu ai có thể cảm nhận rõ lời em thì đó là Đạo Chích Không Trung, những người lấy việc lang bạt tứ xứ làm mục đích sống. Tôi đoán Mục Á không thể làm Đạo Chích mà có lẽ em ảnh hưởng từ ai đó. Thấy tôi nhìn ngó, em bật cười bảo rằng ngày nào cũng ngồi một chỗ rượu bia nên ù người, đi lại cho đỡ oải. Tôi gãi đầu:

-Vậy ngồi một chỗ ngắm cảnh thì sao? Tôi muốn ngắm Đồng Gió!

Mục Á đồng ý. Chúng tôi thuê xe kéo lên đỉnh dãy núi vòng cung phía tây, ngồi dưới rừng cây lá kim chìa ra những cành mảnh khảnh tắm tuyết và ngắm Đồng Gió. Tôi thường ngắm cảnh một mình hoặc cùng ông bạn Đại Bác, sau đó tận hưởng rượu mạnh. Nhưng lần này khác, rượu được thay bằng trà thiết mộc – Mục Á muốn tránh rượu được lúc nào hay lúc ấy. Ngày đó tôi phát hiện uống trà ngắm cảnh có cái thú riêng, không say sưa bồng bềnh như rượu mà ấm nóng, sau một hồi ập ào vị đắng cuống họng rồi lại chót lên vị ngọt đầu lưỡi, giống những cuộc hành trình mà tôi đã trải qua cùng thầy Tây Minh (tôi chợt nhớ thầy cũng rất thích trà thiết mộc). Nhấp xong ngụm trà, tôi lặng lẽ nhìn Đồng Gió quất từng đợt roi gió đẫm tuyết vào đám thuyền cạn mà không biết chán. Nó giống những ghi chép mà các nhà thám hiểm từng mô tả qua những trang sách. Đẹp! – Tôi tự nhủ.

Bàn chuyện ngắm cảnh, các cô gái luôn coi đây là điểm chán nhất của tôi, họ nghĩ tôi coi trọng khung cảnh vô hồn hơn một thực thể sống động như họ. Nhưng Mục Á không giống vậy. Em giấu gương mặt sau vòng tay ôm chặt đầu gối, ánh mắt lang thang giữa Đồng Gió, đường lông mày mảnh mai thi thoảng nhướn lên vì thấy những trận lốc tuyết bất thình lình xuất hiện. Lốc tan, em lại hướng tầm nhìn về đám thuyền cạn rồi nhỏng cổ trông bóng chúng khuất lấp sau màn gió đặc tuyết, chừng như đã gửi gắm tâm sự lên những chiếc thuyền và nhờ chúng chở sang bờ bên kia Đồng Gió. Em thực sự hòa mình với mảnh đất hoang mạc rít gào phía xa, thành thử tôi không muốn tự tiện ôm em. Làm vậy quá bất nhã với người ngắm cảnh! Tôi chìa tay hỏi Mục Á trước, chờ em đồng ý mới kéo vào lòng. Tôi hỏi:

-Em sinh ra ở Đông Thổ nhỉ? Nước nào vậy?

-Diệp quốc. – Mục Á trả lời – Được mười bảy tuổi thì em chuyển tới đây.

-Hồi ấy vui lắm, đúng không?

Em gật đầu. Nhưng khi tôi hỏi quãng thời gian đó, em cười song im lặng. Gió nhẩn nha trên rừng lá kim, em ngước lên ngắm ngọn lá rỏ tuyết rồi ngâm nga theo giai điệu nào đấy. Tôi cảm nhận rõ tiếng rung ở thanh quản Mục Á, tiếng lấy hơi mà không lộ tạp âm thở, đó là dấu hiệu của người biết hát và tập hát từ rất lâu. Nghĩ em yêu ca hát, tôi bèn rủ xem nhạc kịch nhưng em từ chối mà không nói lý do. Tôi không gặng hỏi và vuốt tóc em vỗ về. Có lẽ phải mất thêm một thời gian để em trải bày lòng mình. Cơ mà tôi đợi được.

Chuyện dạo chơi kể trên không phải điểm kỳ quặc duy nhất của Mục Á. Nhiều lần tôi rủ Mục Á tới nhà hàng sang trọng hay dự tiệc quý tộc nhưng em luôn từ chối. Tôi hiểu cho Mục Á bởi cuộc sống của em luôn xoay quanh thức ăn thượng hạng và rượu mạnh khé cổ, nhiều đến nỗi em thừa nhận mình hay gặp vấn đề với vị giác. Em thích những món quà vặt rẻ tiền ở chợ trời như xiên thịt nướng, xâu bánh ngọt, đôi khi chỉ là kem que (em luôn mua kem đôi và bẻ cho tôi một nửa) rồi lang thang cả buổi ở khu chợ. Mục Á nói quà vặt ở đây làm em nhớ tới những mùa lễ hội Diệp quốc. Em kể rằng khi đêm xuống, người ta thả hàng trăm con hạc giấy có phép thuật xuống đường phố Diệp quốc, chúng bay trên những ngôi nhà truyền thống thấp mái với đôi cánh lấp lánh giấy vàng, còn mọi người trẩy hội trên những cung đường nhỏ đầy tiếng nói tiếng cười. Ký ức đó đã ở bên kia Đồng Gió nhưng chúng vẫn sống động trong từng lời nói hay từng cái khoát tay mô tả của Mục Á. Em nhớ nhà và hẳn tuổi thơ em phải hạnh phúc lắm nên mới nhớ đến vậy. Tôi bỗng tò mò về gia đình em song cũng như lúc trước, em im lặng khi tôi đặt câu hỏi. Không sao! – Tôi tự nhủ. Tôi yêu em, tôi đợi được.

Hẹn hò với Mục Á là vậy đó các vị! Nửa tháng bên em, tôi dần quen các ngả lối ở Hoàng Hôn Cảng hay hàng quán chợ trời. Cuộc hẹn hò lặp đi lặp lại một phương thức nhưng luôn có những cung đường mới hay gương mặt mới, những câu chuyện lạ lẫm mà tôi cứ ngỡ cuộc đời phiêu lưu của mình đã trải qua hết. Chúng êm đềm như tính cách phụ nữ Diệp quốc mà tôi thường nghe kể rồi đọng lại thành kỷ niệm trong tâm trí tôi lúc nào chẳng hay. Thành thử đến khi hết hạn nghỉ phép, tôi lấn bấn mãi mà không dám nói lời chia tay Mục Á. Nghĩ cảnh ba tháng tới không có em, tôi bứt rứt khó tả. Mục Á thì khác, em lắc đầu:

-Ba tháng đủ quên chuyện yêu đương. Chắc gì sau ba tháng em còn nhớ anh?

Mặt tôi ngơ ngác như vừa bị hất cả xô nước đá giữa trời lạnh căm căm. Mục Á cười rung vai, hai má ửng đỏ. Em chợt bóp mũi tôi:

-Nhưng em sẽ cố gắng. Yêu cũng cần cố gắng, đúng không? Yên tâm đi chàng trai, anh là quý tộc giàu có, sao em bỏ qua món hời này được chứ?

Mặt tôi ngơ ngác tập hai. Mục Á cười lớn rồi hôn tôi thay lời chia tay. Tôi không chắc em đùa hay thật nhưng những lời em nói khiến tôi phải suy nghĩ nghiêm túc chuyện tình cảm. Gái điếm Băng Thổ mà nhất là các Hạ Nga Chi xưa nay luôn thích cặp kè quý tộc, họ dùng mọi thủ thuật chiêu trò nhằm đạt được mục tiêu đó. Lẽ nào Mục Á khác họ? Hay tất cả những gì em thể hiện chỉ cốt che mắt tôi? Không tự dưng mà Mục Á trở thành Hạ Nga Chi nổi tiếng nhất Hoàng Hôn Cảng, tất cả đều có lý do. Suốt quãng đường về Băng Hóa thành, tâm trí tôi cứ lẩn mẩn những suy tư khó trôi, Đại Bác thấy vậy thì hỏi:

-Sao hả ông bạn? Hẹn hò với nàng Hạ Nga Chi thế nào? Lủng túi chưa?

Nghe thế, tôi chợt nhận ra ngoài khoản phí phải trả cho Đông Môn Cao Lầu để sở hữu Mục Á trong vài tiếng đồng hồ thì tôi chưa hề mất một đồng nào. Nhiều lần dạo chơi ở chợ trời, toàn là Mục Á trả tiền chứ không phải tôi trong khi em có thể vòi vĩnh đòi chiều chuộng. Tôi bật cười. Thực tình tôi không thể định nghĩa con người Mục Á.

Trở lại Băng Hóa thành, tôi gặp gia đình lẫn vị hôn thê. Tôi nói dối mình đến phía đông Băng Thổ làm vài việc giúp thầy Tây Minh. Không ai nghi ngờ tôi. Vị hôn thê ôm tôi, thủ thỉ những lời động viên rồi nói nàng muốn đi chơi. Nàng thật hiền hậu nhưng khổ cho nàng, tôi không có chút tình cảm nào. Mấy ngày đó, tôi định nói tất cả cho vị hôn thê nhưng không đủ can đảm. Tôi chưa từng sợ bất cứ địch thủ nào kể cả thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt nhưng ở chuyện này, tôi đích thực là kẻ hèn nhát.

Ba tháng kế tiếp, tôi theo chân thầy Tây Minh đến những vùng đất xa lạ, gặp những con người lạ lẫm và chiến đấu cho những giá trị xưa cũ. Ba tháng đó, hễ rảnh rỗi tôi lại tự vấn tình cảm mà mình dành cho Mục Á thay vì lăng nhăng bù khú với Đại Bác. Ba tháng đó, thay vì chỉ ghi nhật ký hành trình, tôi vẽ chân dung Mục Á, vẽ những dấu ấn bí hiểm sau đoạn cổ của em, vẽ cả đôi mắt sắc sảo của em; để rồi ngắm lại các bức tranh, tôi thầm cảm ơn hồi trẻ đã học hội họa tử tế. Nhưng ba tháng đó, vẽ vời không giúp tôi vơi nỗi nhớ Mục Á. Như hiểu những tâm sự đó, Đại Bác bớt rủ tôi tham gia mấy vụ gái gú. Nhận ra sự xao nhãng của tôi, thầy Tây Minh có bận phải nhắc nhở. Tôi xin lỗi thầy và cố gắng nhiều hơn trước, phần vì muốn cống hiến, nhưng phần khác là muốn xong chuyện sớm để gặp lại Mục Á. Tôi nhớ em.

Công việc kéo dài hơn dự kiến, sau bốn tháng tôi mới được nghỉ phép. Thay vì về nhà, tôi lập tức đến Hoàng Hôn Cảng và phăm phăm chạy tới Đông Môn Cao Lầu. Gã bố mì Cao Lầu nói Mục Á rất bận, hiện không thể gặp. Tôi thất vọng tràn trề nhưng vẫn để lại lời nhắn hẹn gặp ở địa điểm quen thuộc trên dãy núi phía tây. Những cung đường vẫn trắng xóa hai bên lề, những tán lá kim vẫn lùa xùa rặng tán xanh ngắt giữa mưa tuyết, tất cả vẫn vậy, chỉ là không có Mục Á. Tôi chờ đợi trong khi tuyết rơi mỗi lúc thêm dày còn bình trà thiết mộc đã lạnh ngắt. Giữa trưa, hai giờ chiều rồi sáu giờ tối, lúc tôi phải nghỉ dưới gốc cây vì mệt và cái mũi bắt đầu sụt sịt vì lạnh thì Mục Á xuất hiện. Em mím miệng ngăn tiếng thở dốc thoát khỏi đôi môi phớt đỏ, chừng như cố giấu chuyện mình vừa chạy tới đây, nhưng em chẳng thể che lấp những dấu giày lún tuyết phía sau mình. Nhìn em xem! Vẫn đẹp, vẫn như đóa hoa trà kép rực rỡ nao lòng người. Người cũ, nơi cũ nhưng khoảnh khắc mới, cảm xúc mới. Em nhíu mày kiêu kỳ:

-Em không đến thì anh cứ chờ mãi à? Sao ngốc thế?! À thì tất nhiên em sẽ đến, làm sao mà bỏ một chàng quý tộc đẹp trai giàu có được nhỉ? Đây là cơ hội để đổi đời… này, làm gì thế, Khai Y?! Bỏ em xuống!

Lần đầu tiên sau bốn tháng được nghe giọng Mục Á, tôi không kiềm chế nổi mình mà ôm em rồi nhấc bổng lên cho thỏa nỗi nhớ, cho vơi nỗi uất ức khi nghĩ cảnh em ở trong vòng tay gã đàn ông khác. Vậy nên Mục Á nói thế nào tôi cũng không bỏ em xuống. Em cười khúc khích đoạn ôm lấy đầu tôi rồi hôn đôi môi đỏ xuống mái tóc màu hổ phách. Đêm ấy chúng tôi chỉ ôm nhau, kể lại tất cả mọi chuyện xảy ra bốn tháng vừa rồi. Tôi nghẹn họng khi Mục Á thú nhận em phải lên giường với hai vị khách quan trọng dù đã từ chối đủ đường. Em hỏi tôi giận hay không, tôi trả lời có và nếu là gã Khai Y hăng máu thuở trước, hẳn tôi đã xách kiếm nói chuyện phải quấy với hai kẻ nọ. Em vuốt tóc tôi đoạn hỏi:

-Thế thì yêu một Hạ Nga Chi làm chi, chàng kiếm sĩ? Gái điếm có bao giờ nói thật? Mà nói thật thì ai tin, ai nghe? Nhỡ đâu em ngủ với mười gã thì sao? Nhỡ đâu em muốn ngủ với họ thì thế nào?

-Tôi tin em! – Tôi ôm chặt Mục Á – Tôi sẽ chuộc em khỏi Cao Lầu!

-Vậy sao biết em yêu anh vì tiền bạc và địa vị mà vẫn ngốc vậy? – Mục Á nhếch môi – Anh tin mọi lời em nói là thật, phải không?

Tôi ngẩn mặt còn Mục Á cười lớn. Em vuốt ve cằm tôi, xoắn vài sợi tóc hổ phách rồi rúc mặt vào cổ tôi mà ngủ. Ở bên em, tôi luôn có cảm giác lạ lẫm khó hiểu. Nhưng đó là lý do tôi quay lại Hoàng Hôn Cảng. Tôi muốn biết rõ hơn về em, bước vào trái tim chứ không phải thỏa mãn cảm giác chiếm đoạt. Bốn tháng cho tôi câu trả lời rõ ràng: tôi yêu em, thành thực và nghiêm túc, không phải thứ tình yêu sét đánh nổ đùng đoàng mấy tiếng sấm lãng mạn, hoàn toàn không phải!

Sáng hôm sau, chúng tôi quay lại dãy núi tuyết ngắm Đồng Gió. Tôi và Mục Á đều chung quan điểm rằng cảnh tượng nơi ấy luôn thú vị. Ôm em trong lòng, tôi kể trước đây từng có hai miền cực là Cội Nam và Cội Bắc, chúng phân phối các đợt gió mùa tạo nên thời tiết trên thế giới Tâm Mộng. Sau đợt trừng phạt của Vạn Thế, Cội Bắc bị phá hủy hoàn toàn, chỉ còn lại di sản Đồng Gió nối liền hai lục địa; riêng Cội Nam vẫn tồn tại và được người đời sau gọi là Cội Gió. Nghe xong, Mục Á hỏi:

-Em nghe ở Cội Gió, gió thổi năm này qua năm khác. Anh đến đó bao giờ chưa?

Tôi bật cười. Hầu hết các cô gái không thích Cội Gió vì nó không phải chủ đề thú vị cho các cặp tình nhân. Tôi dợm hỏi vài cô nhưng tất cả họ đều lảng đi hoặc nghe cho biết. Những bãi biển rộm nắng, những thành phố nhộn nhịp chân người hoặc khu giải trí rộn ràng màu sắc – họ thích mấy nơi như vậy hơn là chốn hoang sơ đầy rẫy bí mật. Tôi đáp lời Mục Á:

-Tôi từng theo Đại Bác tới đó. Em hiểu “dòng hải lưu” chứ? Ừ, nơi ấy cũng giống biển vậy, chỉ khác là “đối lưu”. Người ta cần phán đoán các dòng đối lưu để thăng vân tàu không gặp những trận gió bất chợt hay bão lớn. Có nhiều vùng trời rất đặc biệt, rất đẹp nhưng cũng nguy hiểm lắm! Nó gần giống ở Kim Ngân…

-Có phải như Cao Nguyên Bạc ở Sa Thần quốc, Biển Thủy Tinh ở Xa Thùy quốc, Thảo Nguyên Sét ở Tinh Tú quốc?

Tôi ngạc nhiên. Phải là Đạo Chích hay làm việc nhiều với đám này mới hiểu những địa danh kể trên, ngay cả giới chiến binh cũng chẳng thạo huống hồ một cô gái. Có lẽ Mục Á gặp gỡ nhiều loại đàn ông nên em biết nhiều, hoặc có thể Đại Bác kể cho em, nhưng ghi nhớ những chuyện ấy với đầu óc phụ nữ thì em là người đầu tiên. Tôi hào hứng:

-Phải, phải, đúng vậy! Nhưng ở Cội Gió còn khắc nghiệt hơn thế! Rất nhiều địa danh chưa được đặt tên, chưa được khám phá mà chỉ có thể đứng từ bên ngoài trông vào. Nhưng bầu trời ở đó… em biết không… chúng đẹp lắm, đẹp như em vậy! Người ta bảo nơi ấy từng là lục địa rộng lớn thời Năm Đế Chế Cổ Đại, nhưng sau sự trừng phạt của Vạn Thế, tất cả chỉ còn là tàn tích.

-Ở Đồng Gió thi thoảng có khoảng lặng… – Mục Á nói – …nhưng gió ở nơi ấy thì không bao giờ kết thúc, đúng không?

-Phải, và những giấc mơ ở Cội Gió cũng không bao giờ kết thúc. – Tôi trả lời.

Mục Á gỡ tay tôi rồi quay lại nói:

-Em muốn thấy Cội Gió một lần, anh đưa em đi được chứ?

Đó không phải giọng vòi vĩnh hay quan tâm hời hợt nhằm thỏa mãn cái tôi đàn ông, nhiều cô gái cũng từng hỏi câu tương tự nhưng tôi luôn từ chối. Bởi lẽ tôi biết các cô chỉ tỏ ra quan tâm cái mà tôi quan tâm chứ kỳ thực chẳng quan tâm chút nào. Nhưng Mục Á hoàn toàn khác. Đôi mắt em, giọng em, cả dáng ngồi chống tay cùng cẳng chân xòe trên tuyết đầy nữ tính lẫn cái rướn lưng trông đợi – tất cả đều toát ra nỗi háo hức giống thiếu nữ đang mong mỏi chuyến đi xa nhà đầu tiên, mà cũng nghiêm túc vô cùng! Tôi biết em mới hai mươi hai tuổi (22), rất trẻ, nhưng tôi đã quen một Mục Á trưởng thành với đôi mắt sắc sảo thấu triệt tâm can người đối diện. Còn một Mục Á với những dư ảnh thời mộng mơ thế này, tôi mới thấy lần đầu.

-Đi thăng vân tàu không đơn giản đâu, Mục Á! – Tôi ôn tồn giải thích – Cả hạm đội thăng vân tàu toàn đực thôi, chẳng có ai là nữ cả hết! Mà đi lại cũng vất vả, nguy hiểm nữa! Tôi sợ em không chịu được! Rồi thì bọn quái vật không trung, chưa kể miền nam Kim Ngân nữa…

Tôi kể vô số rủi ro trên bầu trời, Mục Á gật đầu thận trọng nhưng cuối cùng vẫn nài nỉ tôi cho em một cơ hội. Tôi nhũn người khi nghe Mục Á nài nỉ nhưng em hoàn toàn nghiêm túc. Đắn đo hồi lâu, tôi đồng ý và hẹn dịp cuối năm, Mục Á bèn nhoài người hôn tôi cảm ơn. Thành thực mà nói, tôi tin em sẽ thay đổi ý định ngay khi bước chân lên thăng vân tàu bởi chỗ đó vốn không dành cho nữ giới. Ha ha! Dù vậy, biểu cảm háo hức đến miền đất xa xôi của em khiến tôi vừa ngạc nhiên vừa lạ lẫm. Em chưa bao giờ làm tôi hết bất ngờ.

Ngắm cảnh xong, chúng tôi lang thang chợ trời thành phố. Vẫn những hàng quán quen thuộc, vẫn là Mục Á mua chiếc kem đôi và bẻ nửa cho tôi. Một buổi nọ, khi đã có thể nắm tay Mục Á bất cứ lúc nào, tôi hỏi:

-Mẹ em là người Diệp quốc, đúng không? Chắc bà cũng đẹp lắm nhỉ?

Mục Á cười. Em chun mũi thì thào “Đẹp hơn nhiều!”, sau dung dăng tay tôi như quả lắc đồng hồ tua ngược thời gian về quá khứ. Như đã suy nghĩ kĩ càng, em bắt đầu kể về mẹ mình bằng giọng nói nhỏ nhẹ. Mẹ Mục Á xuất thân là vũ nữ thần linh, chuyên phục vụ các buổi lễ tại điện thờ. Tôi biết người Diệp quốc thờ Vạn Thế, Nữ Thần Tiên Tri, Bát Đại Hộ Vệ hay các vị thần của họ trong những ngôi đền mang đậm tín ngưỡng tâm linh song không hiểu khái niệm “vũ nữ thần linh”. Mục Á giải thích:

-Truyền thuyết kể Diệp quốc hình thành từ ánh sáng Vạn Thế và bóng tối thời cổ đại, có những bóng tối mà ngay Vạn Thế cũng không thể lấn át. Vũ nữ thần linh dùng tiếng hát hoặc điệu nhảy khiến những thực thể bóng tối luôn say ngủ và không bao giờ thức giấc…

Mục Á nói trong hàng vạn cô gái, chỉ một số rất ít được chọn làm vũ nữ thần linh nên mẹ em có địa vị đặc biệt. Em kể say sưa về mẹ mình, từ chuyện bà hát ngợi ca ánh trăng vằng vặc trong buổi tế lễ có hoàng gia tham dự, trình diễn điệu múa trước hàng trăm con người, những ngày tháng dắt em đi học cho tới thói quen chăm sóc hoa của bà. Chính bà chỉ cho em những điệu múa thần linh và dạy em hát. Nhưng khi kể ngày bà mất, giọng Mục Á đột ngột chùng xuống như dây đàn đang ngân vang thì đứt, mãi lúc sau mới tiếp tục câu chuyện. Một vụ tai nạn, một năm hoa trà kém sắc, mẹ Mục Á ra đi. Em ngửa mặt lên bầu trời lất phất tuyết:

-Hôm đó mẹ nói bận nên bảo em tự về nhà, em không chịu mà cứ đòi mẹ đón, mẹ cười rồi đồng ý. Mẹ ít khi từ chối em lắm! Rồi chỉ vì vội vàng, mẹ không để ý giàn giáo ở công trình xây dựng đổ xuống… Chỉ vì cái thói vòi vĩnh của em mà mẹ chết, những đứa trẻ con luôn đáng ghét, phải không?

-Này, đừng nghĩ vậy chứ! Đó chỉ là tai nạn thôi! – Tôi vội ôm vai em – Em không được nghĩ như thế!

Mục Á cười xòa rồi xua tay bảo tôi quên chuyện đó. Có lẽ nhiều năm qua Mục Á luôn nghĩ chính em khiến mẹ chết. Tiếng cười hiện tại của em chỉ để lảng tránh vấn đề. Em vẫn cho rằng mình là nguồn cơn tội lỗi. Tôi từng chứng kiến loại mặc cảm tâm lý này của cha khi ông trở về từ cuộc chiến tranh tài nguyên, nó dễ dàng giết một người đàn ông khỏe mạnh qua rượu bia và rất khó biến mất. Bấy giờ tôi mới hiểu tại sao Mục Á biết hát nhưng không bao giờ đi xem nhạc kịch cũng như không muốn tìm hiểu nghệ thuật, bởi chúng đã chết sau sự ra đi của người mẹ.

Lo rằng thứ mặc cảm nọ mọc rễ đâm chồi trong đầu Mục Á, tôi không dám hỏi thêm về cha em, sợ lại nghe thêm câu chuyện đau buồn nào đó. Tôi liền kéo Mục Á đến khu bán hoa để em đắm mình giữa lối đi đằm màu thắm sắc ở gian hàng hoa trà, để em dành trọn tâm trí cho những đóa trà đỏ, trà hồng hay trà trắng. Tiếc rằng mùa này không có trà kép, tôi đành tặng em một bó hoa trà my – món quà đầu tiên sau quãng thời gian hẹn hò. So với đống trang sức hay vật phẩm ma thuật mà tôi từng tặng cho những người tình cũ, bó hoa chẳng đáng mấy. Nhưng chỉ tốn vài đồng mà được thấy Mục Á mỉm cười, được thấy em liếc xéo mình rồi giấu gương mặt ngượng ngùng sau lớp giấy bọc hoa thì tôi là thằng khốn may mắn nhất thế giới! Đừng nói tôi vì yêu mà lãng mạn hóa mọi thứ về Mục Á, các vị phải biết… à mà thôi, tại sao tôi phải kể cho các vị? Tôi sẽ giữ dáng vẻ đẹp đẽ ấy của em cho riêng mình như cái cách người Tuyệt Tưởng Thành không bao giờ chia sẻ tài nguyên quang tố của họ. Ha ha!

Bốn tháng không có hơi phụ nữ, bốn tháng không gặp Mục Á, tôi trút nỗi bí bách lẫn nhớ nhung em vào cuộc yêu. Tôi nhận ra mỗi lần lên đỉnh, Mục Á lại hơi khóc, đôi mắt lá liễu đỏ hoe ngấn nước, khác hẳn lần đầu tiên của chúng tôi. Tôi hơi sợ vì tưởng làm em đau đớn, nhưng rồi Mục Á cười và ôm đầu tôi thủ thỉ rằng em hạnh phúc, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Sau khoảnh khắc mặn nồng, chúng tôi cuốn lấy nhau rồi nói mấy chuyện vô thưởng vô phạt mà chỉ ai đang yêu đương mới thấy hay ho. Có một hôm tôi hỏi về bạn trai cũ của em, Mục Á đáp rằng không có và nói tôi là người đầu tiên. Tôi chọc má em:

-Hô? Thế hóa ra bọn đàn ông Diệp quốc mù cả lũ và lú toàn phần à?

Em liếc xéo, búng mũi tôi, nghĩ ngợi một chút rồi kể:

-Cũng không phải yêu đương gì, chỉ là một cậu bạn học cùng lớp, hồi ấy em mới mười bốn tuổi (14). Một chàng trai tốt bụng. Bọn em thường về chung đường, đi học cùng nhau, đi chơi lễ hội với nhau. Rồi cậu ấy chuyển đi nơi khác và hứa sẽ quay lại, em đã chờ nhưng cậu ấy không về, rồi thì em chuyển tới đây…

Em kể lại những kỷ niệm đẹp cùng cậu bạn học, chúng trong sáng thơ mộng đến nỗi tôi nổi cơn ghen với anh chàng đó. Tôi hỏi lý do chuyển đi và tại sao em gia nhập cuộc sống mặt thoa da phấn nhưng Mục Á đưa ngón tay che miệng. Em sẽ nói nhưng là vào một dịp khác. Tôi gật đầu, tôi đợi được. Rồi vì ghen tị anh bạn trai cũ người Diệp quốc của Mục Á, tôi đề nghị đưa em đi chơi xa. Mục Á nói muốn đến Biển Băng Vụn, tôi gãi cằm:

-Nơi đó ở miền viễn bắc Băng Hóa, rất gần lãnh thổ tộc người Đà Ma. Chỗ ấy hẻo lánh cũng không có cảnh đẹp, hay thử sang Thung Lũng Tuyết Tan, bên ấy đẹp hơn? Sao? Em vẫn muốn đến Biển Băng Vụn? Ừ thì được thôi, nhưng mà… em đến đó rồi sao?

-Chưa, em chỉ nghe kể từ cha. – Mục Á nói.

Đó là lần đầu tiên tôi nghe Mục Á kể về cha. Những ngày hẹn hò, em vẫn kể về mẹ và vũ điệu thần linh, những mảnh ký ức tươi đẹp thời ở Diệp quốc, cả cậu bạn học tốt bụng mà mỗi lần nhắc đến là tôi lại thấy ghen tị, mấy chuyện vặt vãnh linh tinh dễ bực mình ở Cao Lầu, nhưng chủ đề “người cha” như một cấm địa. Hẹn hò nhiều nên tôi hiểu tính cách Mục Á, em chỉ nói khi muốn chứ không ảnh hưởng bởi bất cứ tác động ngoại cảnh hay lời năn nỉ ỉ ôi nào. Tôi hi vọng chuyến đi tới sẽ gợi mở điều gì đó về cha Mục Á.

Cuối tháng, chúng tôi lên phi thuyền tới vùng viễn bắc Băng Hóa. Nơi này không có đường sắt nên chúng tôi tiếp tục di chuyển bằng xe kéo tàn ảnh. Suốt quãng đường phủ tuyết, đôi mắt Mục Á chỉ trông về phương bắc xa xôi, bàn tay em trong lòng tôi chốc chốc run lên, các ngón tay thanh tú xăn văn lẫn nhau, vò vắn những niềm bối rối lẫn phấn khích. Tuy không đi nhiều bằng Đại Bác nhưng tôi nắm rõ Băng Thổ và những mảnh đất ở lục địa. Biển Băng Vụn thuộc Chín Biển Lớn trên thế giới, gồm nhiều hòn đảo lớn nhỏ là nơi sinh sống của các tộc người thiểu số phương bắc, đi hết biển này sẽ đến lãnh thổ người Đà Ma. Như tên gọi, mặt biển đầy rẫy băng vụn sắc lẻm có thể cắt nát vỏ tàu thép. Người ta nói trong chiến tranh thời phi cơ giới, kẻ chết chìm dưới biển nhiều vô số kể, linh hồn của họ vì oán hận nơi này mà hòa vào băng giá thay vì về Tụ Hồn Hải để siêu thoát. Đường ra đảo khó khăn cộng thêm những lời đồn đại ác ý về bộ tộc Đà Ma, miền viễn bắc xa xôi hẻo lánh thành thử vẫn hút hẻo xa xăm. Mãi hơn hai mươi năm trước khi chính phủ Băng Hóa xây dựng những giàn điều phối hải lưu, việc đi lại mới dễ dàng hơn. Nhưng ngoài chuyện đó thì Biển Băng Vụn chẳng sở hữu bất cứ khung cảnh ấn tượng nào. Chẳng lẽ Mục Á tìm thấy chất liệu đẹp đẽ mà kẻ phiêu du bao năm như tôi không nhận thấy?

Mục Á luôn khiến người khác ngạc nhiên, hẳn rồi. Nhưng khi em nói muốn đến mấy giàn điều phối hải lưu, tôi cười phì. “Sắt thép thôi mà, Mục Á? Nó không đẹp như hoa trà đâu!” – Tôi nói. Nhưng Mục Á nài nỉ tôi dẫn đi tham quan và dĩ nhiên, em nài nỉ rất nghiêm túc. Nhờ quen biết với ông thị trưởng miền viễn bắc, tôi được một hướng dẫn viên đưa ra biển. Có thể các vị hơi lạ nhưng giàn điều phối hải lưu khá phổ biến tại Băng Thổ. Biển ở lục địa này dữ dội hệt như lịch sử của nó, băng trôi dạt khắp nơi dễ gây nguy hiểm cho tàu bè, bởi vậy mới sinh ra giàn điều phối “nắn” các dòng hải lưu khiến băng trôi quy củ hơn. Nhưng để áp chế mấy vùng biển hung hăng như sói hoang, những giàn điều phối cũng xù xì góc cạnh chẳng kém. Tại sao Mục Á muốn ngắm chúng? – Tôi tự hỏi.

Sau ít phút đi tàu, chúng tôi đến giàn điều phối trung tâm. Chưa đợi tôi hay hướng dẫn viên chỉ đường, Mục Á đã leo lên những bậc thang sắt dẫn vào giàn. Em nhìn quanh, mái đầu xoay qua xoay lại như đứa trẻ lần đầu chứng kiến cảnh tượng thú vị. Mà nào thú vị gì ở mấy giàn sắt đóng bụi, mấy bậc thang dội thanh âm đanh lạnh mỗi khi bước lên hay khối tua-bin khổng lồ xuyên dọc giàn đâm sâu xuống lòng biển? Thật khó tưởng tượng người yêu hoa như Mục Á lại cười rạng rỡ ở chốn nhếch mép không nổi này. Em tiếp tục trèo lên đỉnh giàn qua cầu thang xoắn ốc, bước chân dội âm sắc nhanh nhẹn hào hứng. Tôi thấy Mục Á sải chân bước dưới làn tuyết giá, tay dang rộng và hít trọn từng cơn gió buốt. Đó là dáng điệu trở về nhà. Không thể lầm lẫn. Đó là dáng điệu về nhà. Tôi tin vậy.

Suy nghĩ đó của tôi càng được củng cố khi Mục Á chống tay lên lan can, phóng tầm nhìn về những chiếc thuyền đang hướng về hòn đảo lờ mờ sau lớp sương dày, rồi em nhắm mắt để trí tưởng tượng vượt biển rồi chạm tới lãnh thổ người Đà Ma. Tôi nhìn cảnh rồi lại nhìn em, cảm giác vừa thú vị vừa khó hiểu. Giữa dòng gió lạnh, em nói:

-Cha em từng kể về các bộ tộc thiểu số… – Mục Á chỉ về hòn đảo đằng xa – …họ không tin tưởng Vạn Thế mà ngả về đức tin của tộc người Đà Ma nhiều hơn, họ thờ thần hủy diệt Thiên Phạn. Nhưng ngoài điều đó thì họ cũng bình thường như bao người khác. Họ cũng có nhiều hủ tục nhưng không phải loại người man rợ, chỉ là người ta sợ họ như sợ bộ tộc Đà Ma. Cha em bảo những đứa trẻ ở đó chưa bao giờ biết đất liền, ông muốn làm điều gì đó cho họ. Ông gửi bản đề nghị xây dựng giàn điều phối hải lưu nhưng không được chấp thuận. Ông kiến nghị rất nhiều lần, mãi khi đến tai hoàng đế Băng Hóa, người ta mới triển khai kế hoạch. Ông đã thiết kế và làm nên hệ thống này…

Em khoát tay mô tả như muốn ôm trọn Biển Băng Vụn còn tôi lặng người. Từ lâu tôi đã đoán biết cha em là người Băng Hóa nhưng không thể nghĩ ra chuyện này. Người hướng dẫn viên đưa chúng tôi vào phòng điều khiển giàn trung tâm, căn phòng đầy máy móc nhưng người ta vẫn dành một chỗ gọn gàng cho bức ảnh chụp những kỹ sư đầu tiên của công trình. Mục Á đưa tay chạm mặt kính như muốn ôm lấy người đàn ông trạc tuổi ba mươi mặc áo bảo hộ đứng giữa ảnh, hàng ria tỉa tót theo phong cách quý tộc cũ cùng đôi mắt biết cười. Tôi ghé tai em hỏi nhỏ:

-Cha em phải không…?

Mục Á gật đầu. Hướng dẫn viên cho biết ông ta tên Mục Du Cổ, một quý tộc tự thân người Băng Hóa và là kỹ sư trưởng thiết kế giàn điều phối. Quý tộc tự thân nhằm chỉ những con người trở thành quý tộc nhờ tài năng của mình, không dựa vào gia sản hay danh tiếng đời trước, nó đặc biệt có ý nghĩa ở chốn coi trọng huyết thống như Băng Thổ. Kỹ sư thiết kế giàn điều phối hải lưu không phải người thường, phải vô cùng thông minh và tài năng mới chế tạo được tua-bin phù hợp, chưa kể sắp xếp sơ đồ hệ thống giàn sao cho dòng hải lưu chảy theo ý muốn. Mục Du Cổ là người đàn ông tuyệt vời, nên cũng dễ hiểu tại sao Mục Á vui thú với Biển Băng Vụn, bởi lẽ ở đây em được tự hào về cha mình. Nhưng có lẽ niềm tự hào sẽ lớn hơn khi Mục Á biết nhờ hệ thống giàn điều phối này, miền viễn bắc cuối cùng cũng chịu mở lòng với đất liền, chấm dứt hàng ngàn năm tách biệt. Cha em làm được nhiều điều hơn thế. Nhắc cha Mục Á, tôi bỗng nhớ về cha mình. Ông luôn nói về huân chương, chiến tranh, các kiếm sĩ ông từng dạy dỗ hay địch thủ ông đã đụng độ, nhiều tới mức tôi phát ngán. Bởi vì ông mong một ngày nào đó tôi được chiêm nghiệm những di sản hay dấu ấn của ông, để tôi tự hào mình đã có một người cha như thế. Không nhiêu khê tình cảm như các bà mẹ, người cha chỉ cần vậy.

Tôi hỏi thêm về cha Mục Á nhưng em im lặng đoạn quay sang:

-Em sẽ kể, nhưng anh cũng phải kể chuyện của mình. Còn nhớ không? Anh hứa sẽ kể cho em nhiều điều cơ mà từ ngày hẹn hò đến giờ toàn em kể thôi à! Phải có qua có lại chứ, Khai Y?!

Tôi gãi đầu gãi tai. Mục Á tiếp lời:

-Anh nghỉ phép nhưng chưa về nhà lần nào, đúng không? Có thật vì yêu em mà anh quên về nhà hay đang né tránh cái gì?

Tôi chột dạ rồi nhìn Mục Á, em hơi nhếch môi như biết điều bí mật. Chắc các vị đang nghe đây đều rõ cả rồi, phải, tôi đã đính ước. Mặc dù chuyện đính ước ở xứ này không quan trọng và có thể bị hủy bất cứ lúc nào – bởi vậy người Băng Thổ luôn tổ chức nó lặng lẽ – nhưng nói gì thì nói, tôi vẫn đang mắc nợ với một cô gái khác. Đây không phải mấy chuyện yêu đương mà nói muốn bỏ là bỏ. Lẽ nào Mục Á đã biết? Tại sao? Bằng cách nào? Hay do ông bạn Đại Bác ton hót với em? – Tôi tự hỏi.

Tôi giữ bộ mặt suy tư suốt quãng đường về Hoàng Hôn Cảng dù Mục Á luôn nắm tay tôi thật chặt. Trước nay tôi luôn giữ cảm xúc trước các cô gái nhưng riêng Mục Á thì không. Bởi yêu nên tôi thấy tội lỗi khi lừa dối em, cũng bởi yêu em nên tôi sợ viễn cảnh viếng thăm nhà lần tới, khi mà tôi thưa chuyện với cha mẹ rằng muốn hủy hôn. Thực tình tôi quyết định chuyện này ngay từ lúc đến Hoàng Hôn Cảng, sự xuất hiện của Mục Á chỉ đẩy nhanh quá trình ấy mà thôi. Tôi không thể làm đau khổ vị hôn thê lâu hơn nữa. Nàng cần ở bên một vị quý tộc có sự nghiệp ổn định chứ không phải gã kiếm sĩ lang thang như tôi, quan trọng hơn là người đó yêu nàng. Nhiều người theo đuổi nàng, đa phần họ tốt hơn tôi, tài năng và thực tế hơn gã kiếm sĩ chiến đấu cho những điều mộng tưởng như tôi. Ở bên tôi, nàng chỉ đau khổ.

Đêm trên tàu cao tốc, tôi toan nói mọi điều với Mục Á nhưng em đặt ngón tay lên miệng tôi, bảo “Để lúc khác nói!”. Dăm ngày sau, chúng tôi vẫn hẹn hò bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Rồi kỳ nghỉ phép sắp hết, tôi phải về thăm nhà trước khi quay lại với thầy Tây Minh. Giống lần đầu tiên, tôi khổ sở bao nhiêu thì Mục Á tươi tắn bấy nhiêu:

-Lại chia tay nhỉ? Đừng làm mặt bí xị vậy chứ? – Em vuốt tóc tôi – Đừng trông đợi chuyện tình yêu, Khai Y. Bốn, năm tháng rồi chúng ta sẽ quên nhau thôi!

-Tôi chắc chắn vẫn nhớ em. – Tôi đáp – Thế còn em?

-Hi vọng không quên. – Mục Á nhún vai – Anh là món hời mà, sao em bỏ qua được chứ? Đừng quên em là Hạ Nga Chi. Họa mi biết chỗ đẹp mà đậu, biết chỗ nắng mà hót.

Tôi ngắn mặt còn Mục Á cười ngất. Đây là lần thứ hai tôi ăn xô nước đá chia tay, mà ở xứ Hoàng Hôn Cảng lạnh ngắt này thì càng thấm. Trước lúc đi, tôi tặng em một ít bột lửa ma thuật và hướng dẫn cách sử dụng, coi như làm quà. Mục Á không đáp, chỉ hôn má tôi thay lời tạm biệt.

Trở về nhà, tôi thưa chuyện riêng với cha và đem hết can đảm xin cha hủy hôn lễ. Khỏi cần nói chắc các vị cũng biết người đàn ông có thói quen vò tay thành nắm đấm để nhấn mạnh câu chữ đó đã giận dữ thế nào. Cũng như các vị quý tộc cũ, cha tôi rất quan trọng thể diện, việc hủy hôn chẳng khác nào bảo ông khoác y phục sang trọng rồi chạy ra đường xin bố thí. Tồi tệ hơn, lúc nghe tôi kể mình đang yêu một Hạ Nga Chi, cha ngồi phịch xuống ghế, bàn tay già nua bóp trán vẻ chán ngán đứa con thấy rõ. Tôi dợm lời:

-Chẳng phải mẹ hai của con đã từng như vậy? Chúng ta vẫn sống bình thường đấy thôi? Con và cậu em Khai Nhạn đâu có vấn đề?

-Thời ta khác! Thời anh khác! – Cha tôi gắt, mặt mũi đỏ bừng – Anh nghĩ bao nhiêu Hạ Nga Chi giống mẹ hai của anh? Và bao nhiêu đứa con của Hạ Nga Chi tốt tính như đứa em Khai Nhạn của anh? Anh biết bao nhiêu gia đình quý tộc đổ sụp như tuyết lở chỉ vì gái điếm? Cha anh chỉ là thằng khốn may mắn thôi, con trai! – Cha nói, tay vò thành nắm đấm.

Không khí trở nên căng thẳng, tôi đành từ biệt cha rồi lên đường, không quên chào mẹ, mẹ hai và cậu em Khai Nhạn. Nếu các vị chưa biết thì cha tôi có hai vợ. Mẹ hai tốt tính, tôi quý mẹ, quý cả cậu em Khai Nhạn – thằng bé thân thiết với tôi chỉ thua mỗi Đại Bác. Nhiều thập kỷ trước, quý tộc xứ Băng Thổ này vẫn phổ biến chuyện vợ cả vợ lẽ, cha tôi cũng không ngoại lệ. Nhà có hai người vợ thì luôn nảy sinh vấn đề, mẹ tôi và mẹ hai chưa bao giờ to tiếng với nhau nhưng cũng hiếm dịp trò chuyện thân tình, giữa họ luôn có bức tường vô hình. Bởi lẽ ấy mà trước khi gặp Mục Á, tôi luôn tránh ngủ với gái điếm.

Chuyến đi mới gian khổ gấp nhiều lần. Tôi theo thầy Tây Minh đến miền tây bắc Băng Thổ, chiến đấu cho một bộ tộc thiểu số muốn giành quyền tự trị. Lần đầu tiên tôi và Đại Bác gặp những nhân vật trong Thập Kiếm, những gã đội trưởng máu lạnh từ các giáo đoàn đánh thuê, cả kẻ thù tóc đỏ khủng khiếp khiến thầy Tây Minh e ngại. Ba tháng, bốn tháng rồi nửa năm, tôi không nhớ bao nhiêu trận chiến đã trải qua. Nhưng tôi nhớ Mục Á. Gái điếm Đông Môn Cao Lầu không được dùng điện thoại riêng nên tôi không cách nào liên lạc với em. Tôi dồn hết nỗi lòng vào cuốn nhật ký hành trình, mỗi trang giấy đều có tranh chân dung em, không ít thì nhiều. Nửa năm dài đằng đẵng nhưng đủ lâu để tôi biết tình cảm của mình không phải thứ hời hợt, không phải thứ lãng mạn dễ dàng bùng lên mà cũng dễ tàn lụi.

Cuộc hành trình kết thúc, bộ tộc giành được lợi thế và đủ sức lo việc kế tiếp, nếu không tính vụ rắc rối vì Đại Bác ngủ với con gái ông tộc trưởng thì đó là chuyến đi hoàn hảo. Tôi trở lại nhà trước khi đến Hoàng Hôn Cảng, cha nói chuyện riêng với tôi:

-Nếu anh yêu cô Hạ Nga Chi đó thì tùy, ta không ép. Ta có thể sắp xếp cho cô gái ấy một nơi ở và một danh tính mới. Anh cưới xong, đợi thư thư một thời gian thì đón cô ta về làm vợ hai. Chuyện này bây giờ không hay ho lắm nhưng nếu sự đã rồi thì cũng không vấn đề. Mà anh là con dòng họ Xuy Hạ nên người ta cũng dễ du di, may cho anh đây là Băng Thổ đấy! Nhưng sau này phát sinh vấn đề thì đừng tìm ta xin giải quyết hộ! Mà anh tưởng quản lý sai lầm dễ lắm hay sao? Anh cứ nghĩ trẻ khỏe là có thể sống chung với sai lầm à? Cha anh là thằng khốn khi lấy hai vợ, nhưng may mắn! Anh là thằng khốn, nhưng có may mắn bằng ta không?

-Cha hiểu lầm ý con rồi! – Tôi xua tay – Con không muốn thế. Con chỉ yêu một người thôi. Là nàng Hạ Nga Chi đó. Và nếu cô ấy đồng ý lời cầu hôn, con chỉ lấy cô ấy. Con lấy người con yêu, không phải hôn nhân sắp đặt.

-Cái gì? – Cha tôi đứng phắt dậy – Gái điếm? Làm con dâu chính thức họ Xuy Hạ? Anh điên rồi!

Chuyện sau đó chỉ toàn là cãi nhau. Sự thực là các dòng họ lớn có thể nhận gái điếm làm vợ lẽ nhưng chưa bao giờ chấp nhận họ như con dâu chính thức. Thể diện, chung quy vẫn là thể diện. Tôi phát chán chuyện lễ nghi quý tộc, bèn rời đi và cùng Đại Bác đến Hoàng Hôn Cảng. Chúng tôi đến Đông Môn Cao Lầu. Gã bố mì của Cao Lầu nói Mục Á đang bận, hiện chưa thể tiếp tôi. “Tiếp”? – Tôi là bạn trai em, đâu phải khách hàng? Nhưng vì luật lệ Cao Lầu nên tôi không phản đối, chỉ nhờ gã bố mì báo Mục Á rằng tôi đã về và chờ em ở địa điểm quen thuộc.

Những cung đường trắng, những lâu đài hay khoảnh rừng lá kim – khung cảnh dải núi phía tây vẫn không thay đổi. Tôi chờ ở đó quá chiều rồi đêm muộn nhưng Mục Á không tới. Nếu chẳng phải cơ thể đang run rẩy vì sắp cảm lạnh thì tôi đã không về khách sạn. Hôm sau, hôm sau nữa, rồi cái ngày phía sau của hôm sau nữa, tôi vẫn đến, vẫn chờ Mục Á nhưng em chẳng tới. Thứ cảm giác chờ đợi mà không được đáp lại thực khó chịu hơn hết thảy. Điều kỳ lạ là tôi không nghĩ xấu về Mục Á hay nghĩ em đến với tôi vì địa vị, chỉ nghĩ rằng thời gian chưa đủ lâu và tôi đối xử chưa đủ tốt để em nhớ đến mình. Bầu trời quá nhiều điều thú vị và ít thứ dưới mặt đất có thể khiến con thiên nga sà xuống. Nỗi nhớ em lớn dần, cào xé tim phổi, chuồi lên cổ họng tôi. Đến ngày thứ năm thì bàn tay của nó đã lan đến mắt tôi, đến nỗi tôi không để ý có bước chân người chạy tới. Tôi ngẩng lên và thấy Mục Á. Giống lần tái ngộ trước, em mím miệng ngăn tiếng thở dốc, bàn tay thanh tú cố chỉnh trang lại mái tóc rối vì chạy dưới tuyết. Nửa năm, em cao thêm một chút, bọng mắt nhiều phiền muộn hơn, kém sắc hơn vì không trang điểm, nhưng chừng ấy chẳng làm tôi bận tâm. Bởi nỗi nhớ Mục Á suốt nửa năm của tôi cuối cùng cũng được giải tỏa. Tôi lập tức trấn áp sự yếu đuối của mình bằng nụ cười:

-Ha! Mục Á! Em đây rồi!

Tôi cười thật tươi dù mắt vẫn cay cay. Nhưng tôi cũng thấy đôi mắt Mục Á nhòa đi như đong đầy sáu tháng chờ đợi. Em nói gấp:

-Đại Bác mà không nói thì em không biết anh vẫn chờ! Em nghe gã bố mì nhắn rồi nhưng em không tới, em muốn thôi chuyện này. Mấy ngày em không đến mà anh không hiểu à Khai Y? Sao anh không nghĩ được cái gì lãng mạn mà luôn bày trò ngốc nghếch thế này? Có biết em ngủ với bao nhiêu gã rồi không? Có biết…

Mục Á chưa nói hết, tôi bèn ôm lấy em cho thỏa nỗi nhớ. Rồi thì Mục Á bật khóc. Em khóc rấm rứt, vừa có tiếng nghẹn vừa có tiếng cười, ngực áo tôi ướt đầm gần nửa. Mục Á vẫn ôm ấp những nỗi buồn cho riêng mình mà chẳng tâm sự cùng ai. Em hay cười hơn người thường nhưng cũng khóc lâu hơn người thường. Chúng tôi ôm nhau như thể mặc cho hàng thế kỷ trôi qua. Dưới tán cây lá kim, tôi ôm Mục Á vào lòng và kể cho em từ vụ đính ước tới việc tôi đề nghị cha hủy hôn. Mục Á thực chất đã biết tôi đính hôn từ lâu, tôi hỏi tại sao thì em đáp:

-Lúc đi chơi anh hay sờ túi áo khoác, thế nên đợi lúc anh ngủ thì em lục túi áo và thấy chiếc vòng nạm băng. Vậy thôi!

Tôi vỗ trán “À!” lên một tiếng, đoạn hỏi:

-Biết rồi mà em vẫn còn yêu tôi?

-Đàn bà phải chiến đấu cho hạnh phúc của mình, không ai đem phần đến cho không. – Em đáp.

-Vậy tại sao bây giờ em mới đến? Tại sao em muốn buông bỏ?

-Anh yêu ai đến mức muốn rời bỏ người ấy vì sợ làm họ bất hạnh chưa? – Mục Á liếc xéo.

Tôi cười:

-Vậy là em phải lòng tôi? Ha ha, tôi có sức hút đấy chứ!

Mục Á ngúng nguẩy:

-Đừng quên em là Hạ Nga Chi! Họa mi biết chỗ đẹp mà đậu. Cô gái nào dám bỏ món hời như anh chứ? Quý tộc, huyết thống hoàng gia, địa vị bậc nhất, ai từ chối nổi?

Tôi đần mặt còn Mục Á cười ngất vì làm mặt tôi đần. Em vẫn luôn làm người khác khó hiểu như vậy. Thực sự thì em là ai?

Vài ngày sau, tôi đưa Mục Á đến vùng trời Cội Gió như đã hứa. Tôi dám hứa với em bởi tôi biết Đại Bác có thể giúp, gã thuộc số ít người trên thế giới biết đường bay. Chúng tôi tới Thượng Cổ bằng phi thuyền sau đấy khởi hành trên thăng vân tàu. Tôi vẫn nhớ lần đầu bước lên thăng vân tàu, Mục Á hơi run chân lẫn dè dặt như đứa trẻ phát hiện thế giới lạ, bởi trên ấy chỉ toàn những gã đàn ông bặm trợn luôn miệng chửi thề, còn Đại Bác hú hét tổ chức mừng người phụ nữ đầu tiên lên tàu của gã. Chuyến đi khá vất vả cho Mục Á, em chưa quen cảnh tàu chao đảo vì gió hay những miền đất khắc nghiệt của Kim Ngân. Nhưng khi đã bắt nhịp cùng thế giới không trung, em bắt đầu ra lan can trông dòng người tị nạn về Đại Lộ Đỏ, trầm trồ trước tòa tháp Ngọn Xám của Tuyệt Tưởng Thành vĩ đại, giúp đám nhà bếp làm những thứ đúng nghĩa thức ăn (ơn Vạn Thế cho em lên tàu, tôi tởn vô số lần vì tài nghệ nấu nướng của đám Đạo Chích!). Vào đêm gió lặng, đám thuyền viên, Đại Bác và tôi được chứng kiến những vũ điệu thần linh của Diệp quốc, những bài hát của xứ Đông Thổ huyền bí ma mị. Tuy không hiểu hết những lời ca nhưng tôi biết giữa bầu trời rực rỡ tinh vân và trăng sao này, Mục Á là ngôi sao sáng nhất. Tất cả đám đàn ông bặm trợn ở đây đều yêu quý em, coi em là báu vật tuyệt vời hơn cả những chiến lợi phẩm từ không trung. Đây chính là vương quốc của Mục Á, là nơi con thiên nga tung cánh để cả thế giới biết nó đẹp chừng nào.

Lúc chỉ còn màn đêm vũ trụ và hai chúng tôi, Mục Á ôm tôi rồi kể về người cha. Ngoài Biển Băng Vụn, cha em còn làm giàn điều phối ở nhiều nơi xa xôi khác trên Băng Thổ, dùng tiền giúp đỡ nhiều người trước khi bán tất cả gia sản để theo nghiệp Đạo Chích Không Trung. Ông muốn tự do vĩnh viễn. Nhưng một lần ghé qua Đông Thổ, chút tình cờ số phận khiến ông say mê người vũ nữ thần linh Diệp quốc, kết quả của cuộc tình là Mục Á. Gia đình nhỏ bé nhưng hạnh phúc nhất mà tôi từng biết. Mẹ Mục Á mất, em tiếp tục lớn lên với người cha luôn yêu thương con gái, kể cho em nghe chuyện không trung, về vùng đất Băng Thổ lạnh lẽo xa xăm, về Cội Gió nơi gió không bao giờ ngừng thổi, cả cách sống của ông nữa. Cuộc đời cha Mục Á chưa bao giờ thôi giúp đỡ người khác và sống vì người khác.

-Cha nhớ nghề Đạo Chích… – Mục Á nói – …cha bảo còn rất nhiều loài sinh vật không trung chưa được biết đến, thế giới Tâm Mộng sẽ tuyệt vời hơn nếu người ta biết chúng. Cha nhớ nó như nhớ mẹ vậy! Lớn hơn chút nữa, em nói mình sẽ sống với ông bà ngoại và cha có thể quay lại nghề Đạo Chích, cha không đồng ý nhưng em nài nỉ cha đi. Nếu ở lại với ký ức của mẹ, ông sẽ mục rữa vì đau buồn. Một ngày ông trở về, em nói muốn thấy Cội Gió, ông đồng ý và hứa sẽ khám phá nơi ấy rồi đưa em đến. Nhưng cha không trở về nữa, các Đạo Chích nói ông chết vì cứu thăng vân tàu trong cơn bão. Anh để ý không? Mỗi khi em cầu xin ai điều gì đó, tất cả đều gặp bất hạnh.

-Này này, Mục Á! – Tôi xốc vai em – Đừng nghĩ như thế! Chỉ là tai nạn thôi!

Mục Á lắc đầu:

-Em rời Diệp quốc, sang Hoàng Hôn Cảng ở nhờ một người bạn của cha. Bác coi em như con đẻ. Bác hỏi có thể giúp đỡ điều gì, em nói muốn mở cửa hàng hoa, bác đồng ý và hứa giúp chuyện tiền bạc. Bác giúp em mọi thứ, nhưng khi em mở được cửa hàng thì bác mắc bệnh và ra đi. Anh bảo tai nạn? Không, có lẽ đây là số phận, em giống như một mầm bệnh gieo rắc bất hạnh khắp nơi. Vậy nên em đóng cửa hàng và đến Đông Môn Cao Lầu.

-Không phải kiếm tiền trả nợ? – Tôi ngạc nhiên – Em tự vào Cao Lầu?

-Ừ, tự em muốn thế. – Mục Á gật đầu – Làm gái điếm tức là nhạo báng những đạo đức, bất cứ ai có thể khinh bỉ mình nhưng chính mình cũng khinh bỉ bất cứ ai. Một khi không còn nằm trong phạm trù đạo đức ấy, ta sẽ mất liên kết với thế giới. Em tin rằng một khi nhơ nhớp đủ lâu, thân thể này sẽ không còn thuộc về thế giới thực, em có thể an tâm chết lặng lẽ và không làm ai bất hạnh nữa.

Tôi không biết nên giải thích với Mục Á thế nào. Cha tôi đã có thời gian mặc cảm tội lỗi như vậy, không ai có thể khuyên nhủ ông cho đến khi tự ông đứng dậy. Tôi nói:

-Nhưng hình như em không làm được như thế, nhỉ? Nếu em đã chủ tâm như thế thì em đừng nên quan tâm thằng nhóc Ly Đốc hay bỏ mặc Na Li Nã, trả thù tất cả những người từng đánh em ở Cao Lầu. Nhưng em đâu làm?

Mục Á không đáp, đôi môi hơi cười, bàn tay bối rối vuốt tóc. Bởi lẽ khí chất cao quý của người mẹ và tâm hồn của người cha đã ăn sâu con người em. Em là thiên nga lỡ sa bùn sình nhưng cái ngày em cất cánh giữa bầu trời sẽ đến. Tôi tin như vậy. Tôi ôm Mục Á:

-Nếu em muốn rời xa thế giới, em đã không yêu tôi, phải chứ?

-Tự phụ thế? – Mục Á bĩu môi – Em nói rồi, anh là món hời, bỏ đi thì phí phạm lắm!

-Ồ, vậy sao? – Tôi chớt nhả – Vậy sáu tháng vừa rồi, em không nhớ tôi chút nào à?

-Quên sao được? Ai quên món hời chứ?

Tôi gục đầu xuống vai em cười khùng khục. Mục Á thúc sườn tôi rồi ngửa mặt nhìn bầu trời rẽ ngang dải tinh vân xanh lá cùng dòng ngân hà màu trắng xen màu thanh thiên. Em ôm chặt tay tôi rồi cất giọng hát trong vắt như đáy hồ băng, ca những âm sắc nao lòng từ mảnh đất Đông Thổ hòa cùng gió Kim Ngân lồng lộng trên những lá buồm phồng căng của thăng vân tàu. Tôi biết ơn Vạn Thế, cây mẹ đã dành cho tôi thế giới này và cả cô gái đẹp nhất mà Người từng tạo ra.

Người đi có biết đường dài?

Mưa sa bão táp, hoa cài nhạt phai

Người đi có nhớ đến ai

Lệ rơi mưa tuyết, sương mai thẫn thờ

Người đi, lòng người xác xơ

Có chăng hay biết người xơ xác lòng…?

Sáng sớm ngày kế tiếp, chúng tôi tiếp cận Cội Gió. Dù đã theo Đại Bác đến đây một lần nhưng tôi không khỏi bồi hồi. Trước mắt tôi là từng mảng tường thành cổ đại trôi lơ lửng, con sông bụi đá vắt ngang bầu trời, từng đàn vân cước sải cánh lướt ngang trên đầu chúng tôi trước khi nghỉ chân trên mấy hòn đảo đá phủ rêu xanh thấp thoáng giữa mây. Và gió. Gió nơi này vĩnh viễn không nghỉ, chúng thậm chí xoáy thành lốc rồi bốc lên những cột nước cao hàng trăm mét từ đại dương mênh mông. Người ta nói các cột nước như vậy tồn tại hàng tháng, hàng năm, thậm chí hàng chục năm. Trông Mục Á lặng thinh ngắm nơi mà cha em từng đặt chân tới, tôi ôm vai em đoạn thì thầm:

-Người ta mới khám phá một phần Cội Gió, ngay cả Đại Bác cũng chưa thể đi xa hơn. Đây là thế giới của đàn ông, của trái tim dũng cảm.

Nói rồi tôi nhảy lên thành boong tàu rồi chìa tay trước mặt em:

-Chuyện này hơi nguy hiểm nhưng em muốn bay với tôi không, Mục Á?

-Bay được sao? – Mục Á mở lớn mắt.

-Phải, chỉ những kiếm sĩ biết điều khiển gió mới làm được. Cả thế giới chỉ có vài người sở hữu năng lực như thế, trong đó có tôi. Đi cùng tôi không, Mục Á?

Mục Á cả sợ, đôi chân hơi lùi bước. Rõ ràng nó vượt quá sức chịu đựng với một cô gái, ngay cả gã Đại Bác cũng khuyên tôi nên dừng trò điên khùng này. Nhưng một thoáng qua đi, Mục Á dợm chân, nắm tay tôi và bước lên thành tàu. Tôi buộc chặt em với mình bằng dây đai an toàn, cười:

-Thiên nga thì phải bay, không phải đi trên mặt đất. Tôi sẽ giúp em.

Mục Á bật cười, em ôm lấy tôi và đặt tất cả niềm tin vào đó. Tôi ôm em nhảy khỏi boong tàu, lao xuống không trung từ độ cao hàng trăm mét. Gió lạnh buốt thét gào bên tai chực cuốn phăng tất cả nhưng là người điều khiển gió, tôi có thể nắm bắt từng luồng cơn hiền hòa nhất giữa biển gió cuồng loạn. Chúng tôi xuôi theo những đợt gió đủ mạnh để đưa bay qua đỉnh những cột nước xoáy và trôi theo khoảng trời mênh mông trên đại dương bất tận. Chúng tôi thực sự đang bay. Trước mắt tôi, Mục Á vừa sợ vừa cười, mái tóc xổ tung dưới ánh bình minh như vị nữ thần mở lòng cho tôi bước vào thế giới của em. Tôi hôn em thật lâu, em cuốn lấy như hòa làm một với thân thể tôi. Chúng tôi không nhớ đã bay qua bao nhiêu cột nước, bao nhiêu mảng bụi phép thuật hay đàn quái vật vân cước. Đến khi gió nhẹ nhàng đưa chúng tôi chìm xuống đại dương, chúng tôi vẫn ôm chặt nhau giữa những di tích cổ đại mập mờ trong lòng nước sâu thẳm. Hôm ấy gió thổi mãi, thổi mãi, không bao giờ nghỉ cũng như giấc mơ chẳng bao giờ kết thúc. Vẫn còn vô số lợn cợn khi nghĩ chuyện đối mặt gia đình nhưng tôi thây kệ. Tôi đã có quyết định cho riêng mình.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.