Gió Bụi Trời Nam

Chương 11: Chương 11: Sứ trời sớm giục đường mây Phép công là trọng, niềm tây sá nào




Tiếng nói đầy uy nghiêm đột nhiên vang lên cùng với sự xuất hiện của hơn nghìn tinh binh khiến cho mấy trăm lính huyện Long Biên nhất loạt dừng lại. Bọn họ nhận lệnh của giám quân đại nhân đi bắt phản tặc, thấy đồng đội bị giết nhưng vẫn phải xông lên, phản tặc còn chưa bắt được hết mà đã hao mất hai phần ba quân số. Nay có lệnh mới, tất cả đều mừng rỡ bỏ chiến lùi lại.

Một người cao lớn mặc áo giáp hiên ngang cưỡi ngựa rẽ đoàn quân đi tới, giơ lên một tấm lệnh bài bằng vàng chạm rồng vẽ phượng, vận nội lực hô lớn:

“Thứ sử đại nhân có lệnh, toàn bộ thu quân. Huyện lệnh Long Biên Trình Đức nghe lời sàm tấu, tự ý ra quân, tàn sát dân thường, lòng người oán hận, nay bỏ chức tước, tống giam vào ngục, đợi ngày xử án. Lý Trường Nghĩa là bậc hào kiệt đương thế, tài đức hơn người, lập trang Mai Lâm, cứu khổ giúp nghèo, người người kính phục, nay phong làm huyện lệnh Long Biên, đem tài trí tạo phúc cho dân. Ngày mai đến huyện đường Long Biên nhậm chức, chớ nên chậm trễ.”

Người ấy nói xong, quét ánh mắt uy nghiêm nhìn khắp bốn phía, sau đó nhảy xuống ngựa, bước tới trước mặt Lý Trường Nghĩa, cung kính đưa tới một tấm lệnh bài, xuống giọng:

“Lý đại hiệp, tiểu tướng Nhan Bình quản quân không nghiêm, để bọn chúng làm chuyện càn quấy, tàn hại lương dân trong trang, kính xin đại hiệp thứ tội cho. Lưu thứ sử và tiểu tướng từ lúc được thiên tử phái sang Giao Châu, thấy dân chúng đói khổ, trong lòng đau đớn vô cùng, ngày không ăn đêm không ngủ, chỉ mong có thể đem sức mình tạo phúc ấm cho dân, để người Tống người Giao đều được hưởng ân đức của thiên tử. Được biết Lý đại hiệp là bậc anh hùng, yêu dân như con, Lưu thứ sử vô cùng cảm mến, muốn vời đại hiệp ra cùng giúp sức để giúp đỡ dân Giao Châu. Dẫu rằng một chức huyện lệnh Long Biên cỏn con kia không thể nào xứng với tài trí của Lý đại hiệp, nhưng tiểu tướng cũng kính xin đại hiệp chịu ủy khuất dời gót ngọc khỏi chốn thanh tịnh để mang tài sức giúp đời, giúp cho bách tính Long Biên được cơm no áo ấm. Mong đại hiệp chớ chối từ tấm lòng mến tài của Lưu thứ sử. Tiểu tướng còn bận công vụ trên người, xin cáo từ tại đây!”

Nhan Bình nói xong, xoay lưng lên ngựa rời đi. Quân lính của hai đội cũng theo đó mà rầm rập nối nhau rời trang Mai Lâm, bỏ lại khung cảnh hoang tàn chết chóc lại phía sau.

Biến chuyển này quả thực nằm ngoài tưởng tượng của mọi người. Từ phản tặc cần tru diệt thoắt cái biến thành huyện lệnh Long Biên, huyện lệnh Long Biên lại thành khâm phạm. Mười bảy đệ tử Mai Lâm cũng ngỡ ngàng đến đờ người, không biết phải phản ứng thế nào. Cẩm Hoa tuột khỏi lưng Miêu Miêu, vội vàng chạy tới đỡ Trường Nghĩa, quan sát thương thế cho chàng. Trường Nghĩa cũng hết sức kinh ngạc trước sự xuất hiện của Nhan Bình cùng với sắc lệnh từ Thứ sử Lưu Phương Mục.

Vừa lúc này, đoàn viện binh từ trang Cối Giang do Cao Cảnh Khôi dẫn đầu cũng đến nơi. Đám tàn quân sót lại của trang Thụy Khuê nhanh chóng bị hạ gục, nhưng Liễu Nguyên Thanh đã biến mất tự lúc nào. Trường Nghĩa phất tay, ra ý là không cần tìm nữa. Cẩm Hoa và Thúc Hiến đỡ lấy Trường Nghĩa trở lại sảnh đường trang Mai Lâm. Các đệ tử Cối Giang cũng dìu mười bảy đệ tử Mai Lâm đi theo, băng bó vết thương cho họ, đồng thời chia nhau tìm xem còn ai sống sót hay không.

Trường Nghĩa phóng mắt nhìn xung quanh, không biết trong lòng chàng có cảm nghĩ thế nào. Mới cách đây một giờ, trang Mai Lâm đông đúc rộn ràng tiếng nói cười, chuẩn bị đón Trung thu vui vẻ biết mấy. Thế mà giờ đây chỉ thấy lửa cháy khắp nơi, xác người ngổn ngang nằm đè lên nhau, mùi máu tanh bốc lên nồng nặc, còn lại một khung cảnh chết chóc tang thương, hoang tàn đổ nát. Những gương mặt thân quen còn vương nét ngây thơ non nớt giờ đây đã nằm im dưới nền đất lạnh, chẳng còn đùa nghịch hét hò, chuyện trò cười nói, đấu võ so tài được nữa. Trái tim mỗi người đều chùng xuống, im lặng trong nỗi đau đớn khôn cùng.

Đại sảnh là một trong số hiếm hoi những địa điểm không bị cuộc chiến càn quét qua nên mọi thứ gần như vẫn còn nguyên vẹn. Thúc Hiến thắp lại mấy ngọn nến, đẩy bóng đêm nặng nề ra khỏi đại sảnh Mai Lâm. Trường Nghĩa đã được dìu ngồi xuống chiếc ghế da hổ, trầm tư không nói năng gì. Cao Cảnh Khôi chỉ đạo các đệ tử Cối Giang xử lý dọn dẹp đống đổ nát xong xuôi, quay lại trầm giọng lên tiếng:

“Việc trang Mai Lâm coi như đã xong, còn đề nghị của Lưu Phương Mục, em định làm sao hả Nghĩa?”

Cẩm Hoa tức giận lên tiếng:

“Chuyện này còn cần phải nghĩ nữa sao, Trường Nghĩa là người Việt, há lại có thể ra làm quan với bọn Tống, đứng cùng hàng với bọn chó Ngô cướp nước ấy sao? Tàn sát trang Mai Lâm là chúng, vờ tốt bụng đến cứu cũng là chúng. Nghĩa chúng ta là trẻ lên ba hay sao mà lừa dễ vậy.”

“Cẩm Hoa!” Lý Trường Nghĩa nhíu mày, mắng khẽ một tiếng.

Cao Cảnh Khôi cũng trầm tư, nói:

“Anh thấy việc này cũng đáng để cân nhắc đấy! Lưu Phương Mục sang làm thứ sử chưa lâu, nhưng cũng khá được lòng người, chừng như cũng muốn lập lại trật tự ở Lĩnh Nam. Lão ta rất biết cách chiêu hiền đãi sĩ, thu phục nhân tâm, bây giờ cũng có kha khá người Việt ra làm quan với lão rồi. Nếu em có thể nhẫn nhịn ra làm quan, tìm cách nắm binh lực trong tay, đưa người của ta vào, dần dần thâu tóm thế lực. Khi đó, việc hất cẳng người Tống ra khỏi Lĩnh Nam sẽ có nhiều thuận lợi.”

Cẩm Hoa không chịu, phản bác ngay:

“Chúng ta có thể tự xây dựng quân đội, vừa không bị lũ chó Ngô quản lý, vừa không phải còng lưng làm tay sai cho chúng. Cần gì phải làm quan mới được hả anh Khôi?”

Trường Nghĩa lắc đầu, phân tích cho Cẩm Hoa:

“Em không nên suy nghĩ cực đoan như vậy. Anh Khôi nói rất đúng, nếu người Việt mình ra làm quan, nắm được binh lực, khi khởi nghĩa có thể dùng binh đó đánh lại người Tống, như vậy là mình vừa công khai thao binh luyện tướng một cách đường đường chính chính, lại triệt tiêu lực lượng của kẻ địch, dùng chính binh lính của bọn họ để chống lại họ. Khi đó, giặc sẽ không còn vũ khí nào để ngăn chúng ta lại nữa. Em nghĩ mà xem, nếu anh lấy đao của em để tấn công em thì em làm gì có vũ khí chống lại anh, đúng không?”

Cẩm Hoa không cãi được, đành im lặng nhìn chồng. Trường Nghĩa lại nói tiếp:

“Chuyện này anh và anh Trường Nhân cũng đã bàn nhiều lần rồi, chỉ ngặt nỗi bọn quan lại Tống không để cho người Việt ra làm quan, để có thể nắm toàn bộ quyền lực, thỏa sức vơ vét đàn áp. Nay Lưu Phương Mục sang làm thứ sử, đưa ra chính sách cải tổ, mời người Việt có uy tín ra làm quan. Em cũng biết, một viên thứ sử sang Lĩnh Nam cũng chỉ được ở lại dăm năm là cùng, để kẻ khác còn thay phiên qua vơ vét sản vật phương Nam. Nếu lúc này ta không nắm lấy cơ hội thì đáng tiếc biết mấy.”

“Nhưng anh đang bị thương nặng, làm sao có thể đi nhậm chức được?”

Cẩm Hoa lo lắng nhìn những vết thương loang lổ máu trên người chồng. Lý Trường Nghĩa nắm lấy tay vợ, nhẹ giọng an ủi:

“Em yên tâm, anh làm huyện lệnh có phải cưỡi ngựa đánh nhau đâu. Vì người dân, vì khôi phục Lĩnh Nam, chịu khó chịu khổ một chút có đáng gì. Hơn nữa, có em chăm sóc, chẳng mấy chốc mà khỏe như Miêu Miêu ngay đấy mà.”

Cao Cảnh Khôi cũng gật đầu đồng tình:

“Anh thấy chú Nghĩa nghĩ vậy là phải lắm. Không cần biết Lưu Phương Mục là ý tốt hay ý xấu, miễn có lợi cho việc khôi phục Lĩnh Nam thì nhất định phải làm. Cô Cẩm Hoa chớ có lo, vào phủ huyện lệnh ăn ngủ vài hôm là chú Nghĩa lại đánh nhau với con mèo con kia được ngay.”

Trường Nghĩa cũng bật cười, quay sang Thúc Hiến, nói:

“Anh nghe tin từ Thành với Trung, bảo em giả vờ thành hôn với cô nào đấy, rồi trong đêm động phòng thì mất tích. Trong trang Thụy Khuê cũng ồn ào mất một dạo, nhưng không tìm thấy em. Anh chị có lọt vào trang Thụy Khuê tìm kiếm mấy lần nhưng không có kết quả, còn tưởng có chuyện gì với em. Chị Cẩm Hoa với Như Vân khóc mất mấy ngày. Sau đó, Thành báo lại, em bị đánh rơi xuống hồ mà không tìm thấy xác, anh đoán em đã thoát được ra ngoài, vì lý do nào đó mà chưa bắt liên lạc với mọi người thôi. Thế nào, đi theo cao nhân nào tu luyện à? Tự nhiên võ công em tăng vọt vậy?”

Nghe nhắc đến Như Vân, Thúc Hiến chợt thấy nụ cười của mình trở thành gượng gạo. Gã cố che giấu điều đó bằng cách kể lại chi tiết những chuyện xảy ra với mình, dĩ nhiên là bỏ qua câu chuyện tình cảm rối rắm giữa mình và Ngọc Điểm. Thúc Hiến giải thích thật cặn kẽ cách thức vận công Bát Nhã và uy lực của Linh Quang Bát Nhã chưởng cho mọi người. Cẩm Hoa mỉm cười, âu yếm nhìn cậu em thân thiết của mình, dịu dàng nói:

“Hèn gì em đánh chiêu Linh Quang Thủy Chiếu ra chưởng không có gió mà đánh cho Liễu Bá phun máu tươi, không đứng dậy được. Không biết vị cao tăng đó là ai mà chỉ đọc mấy bài kinh cũng có thể giúp em có võ công đến mức ấy.”

Cao Cảnh Khôi nhíu mày suy nghĩ hồi lâu, sau đó phỏng đoán:

“Anh nghĩ, vị cao tăng đó rất có thể là đại sư Huệ Lâm.”

“Đại sư Huệ Lâm là ai?” Cẩm Hoa cùng Thúc Hiến đồng thanh hỏi.

Cao Cảnh Khôi khoan thai đáp:

“Đại sư Huệ Lâm là một cao tăng danh tiếng ở nước Tống, nhưng ông thẳng thắn phê bình những cổ tục không tốt đẹp của Phật giáo hiện thời, do đó bị những kẻ có thế lực bênh vực Phật giáo lối cũ đẩy sang Lĩnh Nam. Rất có thể là người đó.”

Thúc Hiến chợt nhớ ra điều gì, lấy gói lụa của Ngọc Điểm giao lại lúc trước ra cho mọi người cùng xem. Gã cầm lấy tấm lệnh bài, hỏi Cao Cảnh Khôi:

“Anh Khôi, anh xem thử cái lệnh bài Binh tào thư tá này xem có đoán được gì không? Có phải là Binh tào thư tá Lưu Túc hay Lưu Tuất gì đó không?”

Cao Cảnh Khôi đón lấy tấm lệnh bài, nhíu mày hỏi:

“Em lấy cái này ở đâu ra thế?”

Thúc Hiến chỉ Cẩm Hoa, đáp:

“Từ trên thi thể của kẻ đã tấn công chị Cẩm Hoa trong rừng trúc hai tháng trước. Ngoài ra còn có cuốn sách và bức thư này nữa. Sách thì không có chữ, còn thư thì ngâm nước mất hết chữ rồi.”

Cao Cảnh Khôi rơi vào trầm tư mất một lúc, sau đó chậm rãi phân tích:

“Tấm lệnh bài này có lẽ đúng là của Binh tào thư tá Lưu Túc. Y là quan người Tống, mới sang Lĩnh Nam nhậm chức cùng thời điểm với Lưu Phương Mục. Hai tháng trước anh nghe tin dinh Binh tào thay người, mà không biết thực hư thế nào. Hóa ra, Lưu Túc phục kích trong rừng tre, bị Cẩm Hoa giết chết, nên Nhan Bình phải thay người mới. Nếu vậy thì Nhan Bình và Lưu Phương Mục cũng không phải loại tốt lành gì rồi. Chú Nghĩa, lần này chú càng phải cẩn trọng hơn nhé. Anh nghĩ bọn chúng cũng ít nhiều biết mục đích của chúng ta rồi, mà dám diệt đám quan Tống cũ, thay bằng người Việt, thì mưu đồ bên trong cũng thâm sâu lắm đấy, không phải chuyện đùa đâu.”

Sắc mặt Trường Nghĩa trở nên trầm trọng, chàng thấp giọng nhận xét:

“Nếu như Lưu Phương Mục và Nhan Bình có liên quan, vậy thì việc Nhan Bình dẫn quân đến giải cứu chúng ta, rồi tống giam Trình Đức, mời làm huyện lệnh, tất cả đều có mục đích riêng. Ngay cả việc quân lính Long Biên và trang Thụy Khuê tấn công Mai Lâm, e rằng bọn chúng đã biết từ lâu, chỉ canh đúng thời gian mà xuất hiện thôi.”

Mọi người đều gật đầu đồng tình, mặt mũi đăm chiêu chìm trong suy nghĩ. Nguy cơ trùng trùng vẫn còn phủ trên đầu, tưởng chừng qua đi nhưng càng lúc càng thấy chìm sâu vào cạm bẫy. Cao Cảnh Khôi cầm cuốn sách mỏng không chữ lên, đưa tới gần ngọn nến quan sát, đột nhiên bật tiếng kêu kinh ngạc:

“Chữ khoa đẩu!”

“Cái gì?” Ba người đồng thanh hỏi.

Cao Cảnh Khôi chỉ vào cuốn sách vừa hiện lên mấy ký tự ngoằn ngoèo, giọng nói vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ vô cùng:

“Sách này viết bằng chữ khoa đẩu, chữ cổ của người Việt mình đấy. Hiến à, em mới tìm ra một kho báu đấy, có biết không hả? Đây là bí kíp luyện Lĩnh Nam chỉ pháp, đã thất truyền từ lâu lắm rồi. Không ngờ chúng ta lại may mắn tìm lại được. Ha ha! Trời cao có mắt, đúng là trời cao có mắt mà!”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.