Đôi Lần Gặp, Lỡ Bén Duyên

Chương 3: Chương 3




Mấy ngày qua An Nhược Thần không hề ra khỏi phủ, trên thực tế, ba ngày nay đến cả cửa phòng nàng vẫn chưa nhấc chân bước qua.

Nàng vẫn hiểu được đạo lý “tránh đầu gió, chớ dụ người“. Ba ngày trôi qua vô cùng êm ả không gợn sóng, không ai tìm nàng gây phiền phức cả. Nhưng đến ngày thứ tư, bỗng cha tìm đến cửa mắng nhiếc nàng thậm tệ.

Kỳ thật nguyên nhân mắng nàng rất đơn giản, An Nhược Thần vừa bị mắng vừa nghe đôi ba câu sáo rỗng đã hiểu ra đầu đuôi. Chính là vì chuyện Long đại tướng quân kia đến thành Trung Lan đã ba ngày, nhưng trừ ngày đầu tiên nghị sự với đám người thái thú ra, thì thời gian còn lại đều ở trụ sở binh tướng thao luyện binh trận, từ chối tất cả thiệp mời dự tiệc. Ba ngày qua An Chi Phủ không tìm được đường để nịnh nọt, mấy kẻ kết bè kết phái với ông ta muốn cùng nhau đòi chỗ tốt cũng không được như ý, mọi người rất không vui.

Đêm qua nhân cơ hội đầu gối tay ấp mà Tứ di nương Đoàn Thị đa thổi gió bên tai An Chi Phủ, nói có lẽ do hôm đó An Nhược Thần đụng phải tướng quân, nên mới dẫn đến kết quả đấy. Lại nói tiếp An Nhược Thần suốt ngày chỉ biết đọc sách bẩn văn đen, do đó mà vô lễ thất đức gây ra đại họa, cũng không có gì ngạc nhiên.

An Chi Phủ không chịu nổi khiêu khích, cứ vậy tích tụ một bụng tức, cũng không thèm suy nghĩ xem mấy ngày qua Long đại tướng quân đều thao binh luyện trận xử lý quân vụ, không gặp đâu chỉ có một mình ông ta, huống gì mấy viên quan không liên can đến nhau cũng chưa gặp, nói gì đến việc chẳng qua ông ta chỉ là một thương nhân giàu có, đòi đâu ra xếp hàng lấy số chứ. Tóm lại cơn giận cứ trút lên đầu nữ nhi đã.

An Nhược Thần dò hỏi được nguyên nhân thì thầm thở phào một hơi, không nghi ngờ nàng đào hôn là được rồi. Mấy ngày qua nàng lo lắng đề phòng an phận thủ thường chính là vì sợ cha nàng sực tỉnh ngẫm lại sẽ thấy chuyện không đúng. Cũng may là không sao. Chỉ số thông minh của cha nàng chỉ ở mức tiêu chuẩn.

An Nhược Thần ôm mặt khóc thút thít ngoan ngoãn nghe cha mắng. Nàng biết tỏng Tứ di nương sẽ nắm lấy cơ hội này mà giáo huấn nàng, bắt chẹt nàng đọc sách tiêu khiển để nàng bị dạy dỗ cũng là thủ đoạn bình thường của Tứ di nương. Vì lúc còn nhỏ nàng từng mắng Tứ di nương một câu “đến chữ đại cũng không biết, đồ nhà quê thô bạo”, Tứ di nương liền ghi hận cho đến tận bây giờ. Hận nhất là nàng đọc sách, cứ làm như nàng đọc sách không phải là để đọc, mà là đang nhắc nhở Tứ di nương nàng ta không biết chữ vậy.

Qua khe hở ngón tay, An Nhược Thần nhìn Tứ di nương Đoàn Thị mặt đầy vẻ châm biếm đang đứng dựa vào cửa phòng nàng, trong lòng không khỏi thở dài, đúng là lúc nhỏ không hiểu chuyện chút nào, không biết đạo lý biết co biết duỗi, quá nóng tính, không đủ ẩn nhẫn. May mà nàng đã tỉnh ngộ sớm rồi. Cuộc sống sau này sẽ khá hơn.

An Nhược Thần thấy An Chi Phủ đã mắng xong, vội vã nói chen vào: “Cha, nữ nhi sai rồi. Nhưng cha không cho nữ nhi đọc những truyền thuyết thoại bản kia, từ lâu nữ nhi cũng đã không dám đọc. Không phải lần trước cha đã đốt hết rồi sao?” Vừa nói nàng vừa chột dạ nhìn lên bàn đọc sách. Tầm nhìn quá rõ ràng, bị An Chi Phủ bắt được. Ông ta đưa mắt nhìn theo, trong góc bàn đọc sách của nữ nhi có đặt mấy cuốn sách.

“Đã không còn đọc thì chột dạ cái gì!” An Chi Phủ to tiếng mắng, tự nhận đã nắm được thóp của nữ nhi, liền vung tay lên, “Mau đưa sách trên bàn nó lại đây!”

Bà tử đứng bên cạnh vội vàng đi lấy nó đến.

An Chi Phủ đưa mắt nhìn, trên cùng là một cuốn “nữ giới”, phía dưới là “nội huấn”, nhìn đúng là rất quy củ. Lại nhìn một cuốn bên dưới nữa, “Long tướng quân liệt truyện“.

An Chi Phủ nổi trận long đình: “Đồ mất dạy này!” Còn dám nói láo là không đọc sách tiêu khiển.

Đợi đã, tướng quân gì kia? Long tướng quân!

An Chi Phủ vội vàng lật ra xem, đúng là Long tướng quân thật rồi. Trong sách ghi lại đủ chuyện dân gian lưu truyền về Long Đằng từ lúc tấm bé theo cha xuất chinh cho đến những năm gần đây, thiếu niên anh hùng, tư thế hào hùng, chiến công hiển hách, vạn người ngưỡng mộ.

“Lấy được nó từ chỗ nào?”

An Nhược Thần run run ngập ngừng nói: “Hồi trước mua được nó ở tay bán hàng rong. Nói là thoại bản do thuyết thư tiên sinh ở ngoài huyện chép tay lại.” Nhưng thật ra là do nàng thức đêm bịa ra trong cái ngày ăn bốn thước gia pháp ấy, chế bậy loạn xạ mà viết được một cuốn sách mỏng, cũng ra hình ra dạng. Định bụng nếu cha nàng có nghi ngờ đến phòng nàng kiểm tra thì sẽ đưa cuốn này ra để ông thu, chứng cứ xác thật, là do nàng quá đắm say, vì muốn gặp tướng quân nên mới rời nhà. Hôm nay lại dùng cách kia lấy vật chứng ra, thuận nước đẩy thuyền, không chút sơ hở.

An Chi Phủ lại mở ra lần nữa, nhìn lướt mấy đoạn. Sau đó “hừ” một tiếng, mắng một câu: “Cả ngày chỉ biết đọc mấy thứ bậy bạ này, chép kinh phật mười lần cho ta, tu thân tịnh lòng, kiểm điểm lại cho tốt.” Vừa dứt lời đã phất tay áo rời đi.

Sách bị thu rồi.

An Nhược Thần thở phào nhẹ nhõm. Muốn nàng hối lỗi à, nàng đã sớm hối lỗi rồi. Lần này chạy trốn thất bại, trừ xui xẻo ra còn do nàng gấp gáp quá mức, không suy nghĩ chu đáo. Không có ai giúp nàng, một thân một mình, đi bộ lại không đủ nhanh, nếu tiếp tục trốn như thế nữa tất sẽ khó thành. Trước khi trốn, nàng phải đợi tiếng gió qua đi đã, rồi lại tìm cơ hội ra khỏi thần lần nữa.

Về phần An Chi Phủ, sau khi cầm sách về liền đọc kỹ, bất giác đọc một mạch xong hết. Viết hay thật, miêu tả rõ ràng Long tướng quân mưu trí anh dũng, quả đúng là anh vĩ kỳ tài, thiên hạ vô song. Nếu đích thân thấy cuốn sách này chắc hẳn sẽ vui lắm. Bỗng An Chi Phủ nảy sinh ra một ý. Ông ta liền gọi An Bình đến, để hắn ta đến các tiệm sách trong thành tìm. An Bình tìm một lượt rồi quay về, báo lại là trong mấy tiệm sách quanh thành đều không có cuốn sách đấy.

An Chi Phủ mừng rỡ một phen. Quá tốt, đúng lúc hợp ý ông ta. Ông ta liền tìm sách tượng tới, chép lại cuốn sách kia một lần, thay thành văn bản tơ lụa, phối với hộp quà gỗ đàn hương, lại viết thiệp mời lần nữa, rồi nhờ quan hệ tìm người đưa đến cho Long đại tướng quân.

Lúc An Chi Phủ làm những chuyện đó, An Nhược Thần cũng đang bận rộn. Nàng đang lên kế hoạch cho lần đào tẩu thứ hai.

Không nhờ vả người trong phủ được. Cũng không phải là vấn đề trung thành. Ví dụ như bà vú và hai nha hoàn của nàng đều đối xử thật lòng tốt bụng với nàng, nhưng động một chút bọn họ lại luống cuống sụt sịt, không làm việc được. Hơn nữa họ còn ở ngay dưới mắt người trong phủ, nếu để lộ chút sơ hở gì thì coi như nàng dã tràng xe cát.

Nên An Nhược Thần muốn tìm một người ở ngoài phủ giúp.

Người đó không thể biết quá nhiều được, như vậy mới không bị lộ, lại phải chững chạc biết làm việc, như vậy mới có thể dùng được. Cuối cùng An Nhược Thần chọn Lục đại nương đưa rau cho An phủ.

Lục đại nương là một góa phụ, nhà thuộc diện binh, trượng phu và con trai đều nhận lệnh triệu tập nhập ngũ, từ đó đến nay chưa quay về. Lục đại nương không tái giá cũng không về nhà mẹ, một mình ở trong căn nhà nhỏ, nàng không có ruộng đất nhưng biết chút chữ, biết tính sổ sách, vì vậy thường hay thanh toán nợ nần giúp các nhà đưa rau đưa thức ăn kiếm chút bạc.

An Nhược Thần quan sát Lục đại nương một thời gian, nàng không thích lời ra lời vào với người khác, không thích đàm tiếu thị phi, biết ghi chép sổ sách, xếp hóa đơn cũng rõ ràng. Có lúc An phủ muốn có ít nguyên liệu nấu ăn khan hiếm, vậy mà nàng vẫn có thể nghĩ cách tìm ra. Không nịnh nọt người khác, đồng cảm với hạ nhân chịu khổ. An Nhược Thần từng thấy nàng lén đưa cơm cho một nô bộc bị phủ phạt không được ăn cơm. Lúc rời đi thì rất bình thản, làm như không có chuyện gì xảy ra. An Nhược Thần cố ý chặn nàng ta lại, nàng ta vẫn bình tĩnh như thường, không lộ chút sơ hở.

An Nhược Thần quyết định tìm Lục đại nương giúp đỡ.

Những ngày đầu hễ rảnh rỗi là An Nhược Thần lại lạng quạng trong phủ, đi đâu cũng tìm người nói chuyện kể khổ, để người khác đều cảm thấy bây giờ đại tiểu thư không dám ra ngoài nữa, buồn chán cũng chỉ có thể làm ổ trong phủ tán dóc. Sau đó An Nhược Thần tìm một cơ hội, ngăn Lục đại nương lại rồi tìm một chỗ yên tĩnh trong hậu viện nói chuyện với nàng ta. Mọi người cũng đã quen với việc nàng thích tìm người khác kể khổ, không ai để ý, chẳng người để tâm.

An Nhược Thần nói với Lục đại nương thế này, nàng nói nàng có một người bạn đã được gả cho một tướng công tính tình nóng nảy, có lúc tướng công kia uống say lại động chân động tay đánh đập chửi mắng, phụ nhân bị vậy cũng không dám về nhà mẹ, liền muốn tìm một gian nhà nhỏ, có thể thỉnh thoảng trốn đi. Nên mới muốn nhờ Lục đại nương tìm một căn phòng nhỏ trong hẻm bình thường yên tĩnh, để bạn nàng có chỗ dung thân lánh nạn lúc cần.

Lục đại nương vừa nghe thế đã nhíu mày, không truy hỏi thân phận người bạn kia của nàng, nhưng lại hỏi liệu đối phương đã cân nhắc thỏa đáng chưa, làm như vậy có được hay không. Trốn nhà bỏ đi rồi sau này còn có thể về được không? Sẽ không bị đập đánh nữa ư? Đã có con chưa? Liệu có khi nào vì để trốn trượng phu mà muốn bỏ con không?

An Nhược Thần thầm nghĩ Lục đại nương này quả nhiên biết suy nghĩ, vậy là lại nói: “Tướng công của người bạn kia của ta không kiềm được cơn giận, hễ động thủ là lại đánh thật, người bạn kia của ta lúc nào cũng bị thương, những chuyện đại nương nói ta cũng đã từng hỏi rồi, nàng nói dĩ nhiên là mình đã suy nghĩ kỹ cả rồi, chẳng qua nếu có lúc nàng không tránh được, chỉ e bị đánh đến mức mất mạng thôi, như vậy thì còn gì nữa. Những chuyện về sau, tự nàng sẽ có cách xử trí. Chỉ là nàng chưa từng nói nhiều với ta, nghĩ hẳn có lẽ có phần kiêng dè. Nhưng mạng người quan trọng, ta cũng không thể khoanh tay đứng nhìn được. Cũng không thể đợi nàng sau khi nàng chết đến thăm mộ mới lại hối hận vì sao ban đầu không giúp nàng.” An Nhược Thần vừa nói vừa lộ vẻ mặt bi thương, rưng rưng chực khóc.

Thấy Lục đại nương đã có vẻ mềm lòng, An Nhược Thần lặng lẽ nhét một đĩnh bạc nhỏ cho nàng ta: “Người bạn kia của ta bảo ta tìm người thuê phòng giúp nàng ấy, nói đây là trả ơn. Nếu chuyện thành thì sẽ có đền đáp khác.”

Lục đại nương nhìn chút bạc đó, nhận không khách khí.

An Nhược Thần thầm thở ra, xem ra chuyện có thể thành được rồi.

Lục đại nương nói: “Đại tiểu thư đừng để lộ chuyện này ra ngoài, nếu truyền ra thì dù là người bạn kia của cô hay chính đại tiểu thư, thì chỉ e sẽ rước phiền phức đến.”

An Nhược Thần gật đầu đồng ý. Nếu đã làm chuyện này rồi, nàng đoán hẳn Lục đại nương cũng sẽ kín miệng, dẫu gì cũng là giúp phụ nhân người ta trốn nhà tránh chồng, nếu làm ầm ĩ lên quan phủ thì cũng phải gánh trách nhiệm. Nàng chính là nắm chắc điểm ấy nên mới bịa ra như vậy, tuy là nước cờ hiểm nhưng vẫn phải đi.

Không đến hai ngày, nhân lúc đưa rau đến, Lục đại nương âm thầm kín đáo giao cho An Nhược Thần một chiếc chìa khóa. Nói đã thuê được phòng rồi, ở hẻm Bình Hồ Đông, gian phòng đầu tiên trong đó. Ngưỡng cửa gỗ bị gãy một đoạn, trên khóa cửa buộc dây đỏ, rất dễ nhận ra.

An Nhược Thần cám ơn rồi lại nhét thêm tiền, lại dặn Lục đại nương rằng người bạn kia của nàng là trốn nhà, không dễ xuất đầu lộ diện, đến lúc đó còn phải nhờ đại nương ngày ngày đưa chút thức ăn đến căn nhà kia. Nếu bạn nàng vào ở thì sẽ đặt một hòn đá và giỏ trúc trước cửa, mỗi ngày đại nương cứ để thức ăn vào trong giỏ, rồi lấy bạc giấu dưới đá là được.

Lục đại nương không nói gì thêm, đáp một tiếng được.

***

Long Đại đến quận Bình Nam hơn mười ngày, bận đến mức chân gần như không chạm đất.

Ba mươi nghìn binh mã đã tề tựu đông đủ, thêm mười nghìn trú binh vốn có tại quận Bình Nam, cộng lại được bốn mươi nghìn người. Cửa khẩu chính quan trọng của quận Bình Nam và Nam Tần nằm hai nơi, một nơi là sông Tứ Hạ, hai nước nhìn nhau cách con sông, chèo thuyền quá giang liền đến được biên giới đối phương. Một nơi khác là dốc Thạch Linh, Tiêu quốc nằm phía đông sườn cốc, còn Nam Tần lại ở hướng tây nam.

Long Đại đã an bài xong xuôi, mười nghìn quân của đô úy Hậu Lập lương sung vào đội quân Long gia, dựa theo binh chủng mà phân công chia doanh huấn luyện chung. Trong bốn mươi nghìn người đó, mười lăm nghìn trú đóng hạ trại sau vách đê cao ở sông Tứ Hạ, còn mười nghìn người khác sẽ đến dốc Thạch Linh. Nhân mã còn lại thì ở trong doanh trại thành Trung Lan canh phòng đợi lệnh. Ba doanh trại tạo thành góc tam giác, ở các trạm dịch cửa ải trên đường lớn đường mòn giữa các doanh trại cũng được tra xét cắm cờ đối chiếu lệnh bài, các huyện, hương, thôn xung quanh và đường chính ở thành Trung Lan cũng có quân lính canh gác.

Long Đại mạnh mẽ vang dội, quân kỷ nghiêm túc, huấn luyện nghiêm khắc. Chỉ trong vòng mấy ngày ngắn ngủi đã đưa ra những yêu cầu xây lại xây mới về quân sự phòng ngự dày ngang một cuốn sách. Công binh thơ mộc bị đưa đi khắp nơi lu bù cả lên. Cả quận Bình Nam vì một loạt hành động này mà như bày ra khí thế “lúc nào cũng có thể chiến! Đã chiến tất phải thắng!” vô cùng ác liệt.

Thái thú Diêu Côn lo lắng, nếu thật sự Nam Tần không hề có ý xâm phạm, vậy lúc này liệu có coi Đại Tiêu ta có lòng xâm chiếm không? Như vậy ngược lại mâu thuẫn lại trở nên gay gắt.

Long Đại dửng dưng nói: “Chúng ta bận chuyện nhà mình, người ngoài sao có thể biết?”

Diêu Côn sững người, chợt kịp phản ứng lại, vội nói: “Lời này của Tướng Quân, chuyện xây phòng, điều binh tướng, thao luyện đại đội nhân mã, những chuyện ấy không cần đến gián điệp thăm dò thì dân chúng bình thường đều biết cả. Trong quận bình Nam còn có thương nhân Nam Tần đi đi lại lại, dĩ nhiên sẽ biết được rồi.”

Những quan viên khác đều gật đầu, dường như không quá âu lo về chuyện gián điệp.

Long Đại nhướn mày: “Binh lực Đại Tiêu ta hùng mạnh, phòng ngự nghiêm ngặt, có thể bảo vệ trăm họ bình an, bách tính biết những điều này chẳng lẽ không phải là chuyện tốt ư? Nếu Nam Tần vốn có ý đồ xấu, chắc hẳn nay sẽ lại cân nhắc thận trọng, chẳng lẽ không phải là chuyện tốt sao? Diêu đại nhân lo lắng quá rồi.”

Diêu Côn nhếch mép, hắn làm quan ở quận Bình Nam này đã hơn hai mươi năm, mấy năm chủ bạc* mười mấy năm thái thú, tự nhận hiểu rõ tường tận về Nam Tần. Hắn nói: “Hai mươi năm trước Nam Tần và Đại Tiêu ta chiến nhau ba năm, bị Long lão tướng quân và Long tướng quân đánh cho tan tác, Hoàng ta nhân từ, chấp nhận nghị hòa đầu hàng, mở cửa giao dịch sắt đá, lúc ấy mới có được hòa bình của Nam Tần và Đại Tiêu ta hôm nay. Bài học năm đó rành rành ngay trước mắt, mười bảy năm trước chính ta ở thành Trung Lan này nhìn thấy bọn họ đầu hàng cầu hòa. Mười bảy năm qua, thuế quan mậu dịch giữa hai nước ngày càng thịnh vượng, Nam Tần ngày càng dồi dào sung túc, bọn họ biết là dựa vào hiệp định hòa bình năm đó mới có được hôm nay, nếu muốn vi phạm thì sẽ bị binh hùng ngựa sắt của Đại Tiêu ta đánh cho thiệt hại nặng nề, hai bên bế quan tỏa cảng, không vận chuyển sắt đá nữa, thì Nam Tần coi như vừa mất tiền lại mất lợi.”

(*Chủ bạc là một chức quan chuyên phụ trách công văn giấy tờ cho quan phủ.)

Nói đến đây, Diêu Côn hơi dừng lại, nhìn các vị quan viên ngồi xung quanh, mọi người rối rít gật đầu, rõ ràng là có cùng cái nhìn với hắn ta. Diêu Côn nói: “Tướng quân, theo như ta thấy, nếu thật sự Nam Tần gây ra động tĩnh kia, hẳn cũng chỉ vì để Đại Tiêu ta phòng bị cảnh giác, cải thiện tiền đàm phán, từ đó kiếm được nhiều lợi hơn từ Đại Tiêu ta. Nhưng đánh nhau ư?” Diêu Côn lắc đầu: “Bọn họ không dám.”

Đây đã là lần thứ hai Diêu Côn tỏ rõ thái độ, cho là Nam Tần tuyệt đối không có ý định xâm chiếm. Long Đại khẽ gật đầu ra hiệu đã hiểu, hai mươi năm trước hắn vẫn chỉ là cậu bé năm sáu tuổi, đã nghe tổ phụ phụ thân kể rất nhiều về cuộc chiến mấy năm kia, cả hai nước đều thương gân động cốt. Sau đó đúng là Nam Tần đã trở nên nề nếp dễ bảo hơn, trong buổi rượu chè thương nghị về cuộc chiến này, Long Thắng từng hào khí ngút trời lớn giọng nói: “Đánh cho chúng biết vâng lời, lần sau không dám đến nữa!”

Còn hôm nay có đến hay không thì Long Đại khó nói được, chuyện quân không phải dựa vào suy đoán mà cho là đúng, hắn còn phải xem tình báo nữa.

Long Đại quay về doanh trại, giáo úy Tạ Cương đang đợi hắn.

Phàm trong quân đều có trinh thám, dò đường, dò nước, dò người, dò tình hình địch, nghe ngóng quan sát, trinh sát tuần tra, dùng gián điệp, binh thư đã nói: “Nếu muốn dụng binh, trước phải xem xét chuyện địch.” Đội quân Long gia có không ít trinh thám, một ít rải rác bên ngoài, một ít ở trong quân đội, có chức trách có biên chế, mà người quản lý các trinh thám này chính là Tạ Cương.

“Sao rồi?” Long Đại hỏi.

Tạ Cương đáp: “Nàng ta đúng là An gia đại tiểu thư, tên là An Nhược Thần. An gia là thế gia vọng tộc ở thành Trung Lan. Cha nàng ta là An Chi Phủ có ba căn tửu lâu, hai tiệm đổi tiền, gần đây đang chuẩn bị mở một cửa hàng ngọc thạch lớn nhất quận Bình Nam nữa.”

“Ngọc thạch ư?”

“Vâng, chính là hàng nhập từ Nam Tần. Gần đầy ông ta thường qua lại với thương nhân chủ mỏ ngọc thạch của Nam Tần, trong vòng hai tháng trước đã thiết đãi yến tiệc năm sáu lần. Nhưng nghe nói người có quan hệ tốt nhất với Nam Tần trong quận Bình Nam lại chính là Tiền lão gia Tiền Bùi ở huyện Phúc An, mối mua bán này cũng là do ông ta dẫn đường. Con trai Tiền Bùi là Tiền Thế Tân, huyện lệnh huyện Phúc An.”

Long Đại biết Tiền Thế Tân, vừa rồi trong buổi nghị sự, Tiền Thế Tân cũng có mặt. Hắn cũng từng nghe đến cái tên Tiền Bùi phụ thân của Tiền Thế Tân, người này có quan hệ không tệ với Nam Tần, có tin đồn lúc còn trẻ từng du lịch đến Nam Tần, kết giao không ít bạn bè, sau đó quay về thành Trung Lan mở trường dạy học. Người có học xưa nay thanh cao, khinh thường chuyện mua bán, nhưng ngược lại Tiền Bùi không hề cố kỵ gì, tuy ông ta không trực tiếp mua bán nhưng kết giao với đủ kiểu thương nhân, tiến cử nhân mạch đường đi, không cần tự mình mở cửa hàng cũng kiếm được đầy bát vàng. Nghe nói ông ta dạy học cũng tốt, có không ít học sinh con em. Diêu Côn chính là một trong những môn sinh của ông ta. Hai mươi năm trước khi hai nước đại chiến, Tiền Bùi dựa vào quan hệ nhân mạch của mình ở Nam Tân mà cùng Diêu Côn liều chết dò xét tin tức của Nam Tần, lập được công lớn. Sau đó Mông thái thú qua đời thì Diêu Côn liền tiếp nhận vị trí thái thú, còn Tiền Bùi không thích làm quan, từ chối ân điển ban quan của hoàng thượng, chỉ nhận tiền tài bảo vật. Từ đó trở đi, cạnh cửa Tiền gia chói lọi, con trai Tiền Thế Tân tuổi đời còn trẻ xuất thân từ áo vải cũng nhân tiện được lên làm huyện lệnh ngũ phẩm, cũng là chuyện người khác kể lể say sưa.

Tạ Cương nói: “Nhưng danh tiếng của Tiền lão gia kia thì không tốt lắm. Nghe nói từ lâu ông ta đã không còn dạy học nữa, trái lại lại đâm đầu vào tiền tài sắc dục, ỷ vào nhân mạch rộng rãi cùng chiến công trước kia mà càng già càng ngông cuồng. Đánh chửi hạ nhân, mua bán tỳ nữ, nạp nhiều thiếp thất và nha hoàn thông phòng. Nghe nói Tiền đại nhân rất phẫn nộ trước chuyện đó, liền chia nhà với Tiền lão gia, một ở trạch đông, một ở trạch tây, có cửa ra vào, mắt không thấy thì tâm không phiền.”

“Cửa hàng ngọc thạch của An gia có gì đặc biệt?” Long Đại vừa hỏi vừa xem hồ sơ công văn. Thể tích trọng lượng ngọc thạch khá lớn, lúc chở hàng mà có táy máy chân tay, lén giấu đi vận chuyển chút gì đó cũng tương đối dễ dàng. Cho dù có người ẩn nấp trong rương thì cũng không phải là không thể.”

“Cửa hàng vẫn chưa khai trương, chỉ biết quan hệ phía Nam Tần là do Tiền Bùi lo liệu, An Chi Phủ chỉ chi tiền chi người xây cửa hàng. Dựa theo danh mục kê khai trong ti thương bạc, An Chi Phủ đã bỏ ra ba rương hàng nộp tiền bạc tiền thuế, hơn một nghìn tám trăm lượng bạc.”

Số tiền quá lớn. Long Đại bình tĩnh tiếp tục đọc hồ sơ.

“An Chi Phủ và Tiền Bùi chẳng những hợp tác mua bán mà còn sắp trở thành thông gia nữa. An gia đại tiểu thư và Tiền Bùi đã đính hôn, ngày cưới định vào mười bốn tháng mười hai.”

Long Đại ngẩn ra, ngẩng đầu lên. Có thể định ra hôn sự đó được sao? An Nhược Thần và Tiền Bùi ư?

“Làm vợ kế?”

“Vâng.”

Long Đại nhíu mày: “Đã điều tra bút tích của An Nhược Thần chưa?”

Tạ Cương rút một tờ giấy ra, đưa cho Long Đại: “An đại tiểu thư cúng đèn trường minh trong miếu. Đây là kinh phật nàng ta cúng trước đèn, do chính tay nàng ta chép ở trong miếu. Không biết liệu tờ giấy gián điệp kia có phải do nàng ta viết không, tuy chữ viết không quá giống nhau, nhưng chữ của nàng ta lại phóng khoáng có lực, rất có khí chất thư sinh. Nếu muốn cố ý viết ra mấy chữ trên giấy đó thì cũng không phải là không thể.”

Long Đại nhìn cuốn kinh phật được chép trong tay, cẩn thận ngẫm nghĩ chuyện này.

***

Lúc này An Nhược Thần đang đi dạo trên đường. Ở nhà nàng biểu hiện không tệ, biết điều ngoan ngoãn, còn chủ động hỏi công việc chuẩn bị mua sắm cho hôn sự, lấy một tờ giấy liệt kê những vật mình muốn ra. “Nếu đã phải gả đi thì cũng không nên bạc đãi mình.” Tiếp tục sắm vai gặp được tướng quân đã thỏa mãn nỗi lòng si mê, giờ gả thì gả thôi, cũng mua chút trang sức quần áo mới cho mình.

An Chi Phủ thấy nàng như vậy liền tháo lệnh cấm túc, còn gọi phòng thu chi đến chi chút bạc để nàng đi mua đồ. Thế là An Nhược Thần dẫn theo nha hoàn xuống phố.

Đi thẳng về hẻm Bình Hồ Đông, lần này An Nhược Thần ra ngoài là muốn xác nhận lại điều kiện của căn phòng đã thuê, lại còn phải quan sát tình hình dọc đường đi kỹ càng, trong lòng tính toán cẩn thận cho lần trốn nhà thứ hai. Nên nàng đi rất chậm, nhìn rất kỹ, còn phải mua rất nhiều thứ. Hai tay tiểu nha hoàn đi đằng sau ôm đủ thứ không xuể, bị giày vò đến mệt. An Nhược Thần thấy thời cơ đã đến, bảo nàng ta đến quán trà cuối đường mua trà rồi chờ nàng, nàng chọn cao thơm xong sẽ đến.

Hai tay nha hoàn mỏi nhừ đến mức không giơ lên nổi nữa rồi, vừa nghe thấy thế liền như được tháo gánh nặng, nhanh chóng bước đi. Mắt thấy nàng ta đã đi vào quán trà, An Nhược Thần cấp tốc chọn hai cao thơm, để chủ quán gói kỹ. Sau đó cầm lấy đồ, thấy khi nha hoàn né tránh cánh tay người khác không nhìn qua bên này thì liền lắc mình rẽ vào con đường nhỏ ở bên cạnh. Trong con đường nhỏ không có ai, An Nhược Thần nhanh chân chạy, chạy đến cuối con đường thì liền rẽ trái dọc theo đường mòn chạy tiếp, cuối cùng đã thấy được con hẻm bình thường kia.

An Nhược Thần cẩn thận nhìn ngó chung quanh, không có cửa hàng gánh rong nào, tất cả đều là tiểu trạch tiểu viện, cửa đóng kín, có vị đại nương tay dắt đứa bé khẽ hát ca dao, sau khi vào một căn nhà nhỏ cũng nhẹ nhàng khép cửa lại, sau đó trên con đường mòn không còn âm thanh gì nữa.

Yên tĩnh hẻo lánh, là chỗ ẩn thân tốt.

An Nhược Thần nhanh chóng đi vào con hẻm Bình Hồ Đông, tìm được gian phòng đầu tiên bên trong, ngưỡng cửa gổ bị gãy một đoạn, trên khóa cửa buộc dây đỏ, giống như Lục đại nương đã nói. An Nhược Thần lấy chìa khóa ra mở cửa, thuận lợi đẩy cửa ra.

Trong căn phòng nhỏ chỉ có một giường một tủ, trước cửa sổ buồng sau có kê một điều án* không thể gọi là bàn, ngoài ra còn có một chiếc ghế cũ. Nhà rất nhỏ, bám đầy bụi bặm, nhưng dọn sạch sẽ chắc hẳn cũng không đến nỗi tệ. An Nhược Thần thở phào một hơi, trong lòng nhanh chóng điểm qua những đồ cần đưa thêm, bình nước, cốc nước, lò than, thùng phân, chăn nệm vân vân. Nàng nhoài người đến cửa sổ phía sau nhìn một chút, rồi lại mở cửa sau đi ra ngoài. Sau nhà là một hành lang, bên kia hành lang là vách tường sau, ngược lại lại giống một hậu viện nhỏ hẹp. Trong sân có một chậu hứng nước, còn có hai cây gậy gắn sợi dây, có lẽ dùng để phơi quần áo.

(*Điều án, cũng có thể gọi là điều kỷ, là đồ xài trong nhà ngày xưa của dân tộc Hán, đặt trong gian nhà chính, đặt phía sau bàn ghế dùng để trưng bày trang sức vật phẩm, mặt án hẹp và dài như hình chữ nhật.)

Đầu bên phải hành lang bị chặn, cũng là một vách tường, tường bên trái bị sụp một nửa. An Nhược Thần nhớ lại Lục đại nương đã từng nói, bên cạnh cũng là căn phòng trống, không có người ở, chủ nhà lười biếng lần lữa mãi không chịu sửa tường, nàng ta đã nói chủ nhà mau sửa sớm đi, giấy trên cửa sổ cũng sẽ được hồ mới, tuyệt đối sẽ không chậm trễ chuyện vào ở.

An Nhược Thần bước qua tường nhìn xem, bên cạnh đúng là phòng trống thật, ngay đến giường cũng không có. Chỉ đặt một cái bài tròn một chiếc tủ, kèm thêm hai cái ghế.

Có chút kỳ lạ, trực giác An Nhược Thần mách rằng có chỗ không đúng.

A, đúng rồi, đã là phòng trống nhưng vì sao căn phòng này lại sạch sẽ đến thế, còn gian của nàng lại đầy bụi.

Còn đang nghi ngờ thì bỗng nhiên cửa phòng “két” một tiếng, bị đẩy ra.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.