Bên Cạnh Thiên Đường

Chương 12: Chương 12




Chương 13

Những mạch núi dài kéo dài không dứt chạy hai bên đường quốc lộ. Dõi mắt nhìn ra xa, ngoài đá ra thì không thấy gì hết, ánh mặt trời gay gắt chiếu xuống mặt đá phản xạ ra những tia sáng rực rỡ, tựa như vầng hào quang thắng lợi trong cuộc chiến tranh đoạt không gian sinh tồn với màu xanh của thực vật? Đá ở đây có màu xám hay xám đen nhưng xe đi qua một nơi gọi là Tây Hồ trấn, đá lại biến thành màu đen tuyền, trông rất thần bí và khủng bố. Hai bên đường lúc nào cũng có thể thấy những bức tường đổ nát, và những cây cỏ lạc đà với sức sống mạnh mẽ đang ngoan cường chống lại sự khắc nghiệt của sa mạc. Tôi không khỏi thầm thở dài cảm thán trước nhiều loài thực vật còn chưa biết tên trong sa mạc đang dùng thân thể mình để ca ngợi sự sống, châm chọc tử thần chỉ còn cách mình trong gang tấc. Chợt có cảm giác hổ thẹn.

Chiều tối hôm sau, chúng tôi đến động đá Mạc Cao ở Đôn Hoàng.

Sau khi thưởng thức các bức bích họa trong động, tôi và Mũ Bò kiếm một chỗ mát mẻ ngồi nghỉ ngơi, bắt chuyện với một người làm công ở gần đó. Anh ta nói ở mé phải chỗ này có một dòng sông cạn, cạnh đó là một quần thể động đá còn đang trong giai đoạn nghiên cứu, nên vẫn còn giữ nguyên được trạng thái nguyên thủy, đáng xem hơn ở đây nhiều. Người làm công đó còn nói cơ quan quản lý đã rào chỗ đó lại, người ngoài không được vào trong. Mũ Bò nháy mắt với tôi một cái, tôi hiểu ý, khẽ gật đầu đáp lại.

Đêm xuống, du khách tản về các nhà nghỉ, khu du lịch vắng tanh

Núi Minh Sa dưới ánh trăng trông thật tĩnh lặng và thanh bình. Động đá Mạc Cao như hàng lông mày kéo dài dưới chân núi. Cạnh đó là một dòng sông đã cạn khô, lòng sông hằn lên những nếp như vẩy cá, lấp lánh dưới ánh trăng.

Tôi kéo tay Mũ Bò, chui qua những bụi cỏ rậm rạp, nhảy xuống bờ đập, chạy qua lòng sông, trèo lên bờ đối diện, chạy thẳng đến quần thể hang động bị rào kín bên phải hang đá Mạc Cao, chui vào một cửa hang rộng và cao. Dưới ánh trăng, một bức tượng phật lớn đứng sừng sững, do nhiều năm không được tu tạo lại, tượng phật đã mất tay mất chân, toàn thân phủ một lớp bụi dày, trên vai đùn một đống phân chim.

Tôi và Mũ Bò đi vòng vòng khắp nơi, tìm kiếm những thứ ly kỳ cổ quái. Hai người mò ra phía sau tượng phật, phát hiện một viên gạch có màu sắc rất khác những viên gạch khác, bèn tìm một cái gậy, cẩn thận moi nó ra, bật đèn lên soi vào bên trong, rồi thò tay vào mò mẫm, không ngờ mò ra được một chiếc trâm bạc và một cái nhẫn ngọc. Cả hai đều rất kinh ngạc. Mũ Bò cẩn thận cầm lên quan sát, so sánh một lúc rồi cài trâm lên mái tóc dài, còn chiếc nhẫn ngọc thì đeo vào ngón út của tôi.

Tiếp tục đi vào bên trong, hang đá giống như một mê cung khổng lồ, mỗi cửa hang đều có mấy lối ra khác nhau. Tôi lấy la bàn, đi thẳng theo hướng song song với lòng sông cạn. Cảm giác lúc này giống như đi qua một ngàn năm trăm năm lịch sử, hay như đọc muốn cuốn biên niên sử về văn hóa Tây Vực vậy. Cảm giác được đặt chân lên lịch sử, khiến máu trong người tôi nóng bừng lên.

Tôi đã từng có cảm giác tương tự như vậy một lần.

Năm đó tôi sang Ý du lịch, đến tận Herculaneum. Nơi này cũng giống như thành cổ Pompeii, đã bị núi lửa Vesuvius hủy diệt trong nháy mắt. Điểm khác nhau là Pompeii bị khói bụi lưu huỳnh vùi lấp, còn Herculaneum thì bị bùn đất chôn vùi, có lẽ còn thảm khốc và khủng bố hơn gấp bội. Hoàng hôn hôm ấy, tôi ngồi ở một góc phố Herculaneum mới được khai quật lên mặt đất, vuốt nhẹ lên tảng đá đã bị vùi lấp 1900 năm trước, cảm giác thật kỳ lạ, tựa như nhìn thấy chúa Jesu sống lại vậy. Lúc ấy, tôi không nén nổi tiếng thở dài, thầm nghĩ con người sống một đời trên thế  gian này, rốt cuộc có thể để lại cái gì?

Cùng Mũ Bò trèo lại sang bờ bên kia, ngồi xuống cạnh một dòng suối, thở hổn hển vì

- Lần này có được coi là thám hiểm không?

Mũ Bò hưng phấn nói.

- Không được, phải gọi là ăn trộm báu vật mới đúng

- Thế nào mới được gọi là thám hiểm?

- Đến La Bố Lạp tìm xương người chết một ngàn năm trước, mang về nhà gối đầu.

- Như vậy có phải là lấy trộm văn vật không?

Mũ Bò hỏi.

- Là lấy, không phải trộm. Nếu mà đem đi bán, thì mới là trộm. Chúng ta chỉ đổi chỗ của nó thôi. Để trong tủ kính lạnh lẽo của viện bảo tàng, làm sao bằng để dưới gối chúng ta vừa ấm áp vừa dễ chịu được.

- Tôi thích anh rồi đấy, chuyện gì cũng tìm được một lý do hợp lý, giỏi thật!

Tôi và Mũ Bò quyết định dựng lều ở bên bờ sông khô cạn.

Hai người chui vào trong lều, mở lỗ thông gió ra, vừa ngắm nhìn bầu trời đầy sao vừa nói chuyện. Mũ Bò muốn nghe chuyện thám hiểm, tôi bèn kể cho cô nghe câu chuyện. Heinrich Schliemann phát hiện ra thành cổ Tiryns, kể đến khi Mũ Bò kêu buồn ngủ mới thôi. Tôi chui ra khỏi lều, ngồi dưới ánh trăng, bật máy nghe nhạc lên nghe bài “Thời  gian” của Hứa Nguy.

“Thời gian” có một sức mạnh làm lay động lòng người. Mỗi lần tiết tấu như nước chảy của nó vang lên, tôi phảng phất như nhìn thấy dòng thời  gian đang chảy dưới chân mình như một dòng suối nhỏ, nước không quá mắt cá chân, lững lờ chảy qua. Tiếng đàn tạo nên một không  gian rộng lớn, tựa như những câu chuyện bể dâu đang chìm dần phía sau năm tháng. Mỗi lần nghe, tôi đều có cảm giác như mình đang đi xuyên qua con đường hầm của thời  gian, quầng sáng lúc sáng lúc tối của hoàng hôn hắt lên gương mặt, phía trước là tương lai thần bí mịt mùng, phía sau là thanh xuân đã bị phung phí gần hết, cảm giác ấy, thật sự rất thương cảm.

Đột nhiên nghĩ tới một vấn đề: nếu như bây giờ mà chết, cả đời tôi sẽ hối hận nhất điều gì?

Một chuyện là khi mẹ qua đời tôi không thể gặp mặt bà lần cuối. Chỉ có thể đứng dưới ống khói cao cao của đài hỏa thiêu, nhìn làn khói xanh nhàn nhạt tượng trưng ẹ bay lên trời cao. Làn khói xanh ấy, là ấn tượng cuối cùng của tôi về “mẹ”. Sau đó tôi bắt đầu sống cuộc sống không nương không tựa: phiêu bạt giãy dụa giữa biển người mênh mông, không tìm được nơi để về, cũng không có gì để gửi gắm. Cho đến khi gặp được Bất Bất, có được em. Tuy chỉ là hình thức, nhưng đối với tôi đã là vô cung quý giá. Từ đó tôi đã học được cách gửi gắm ước mơ và hy vọng của mình vào Bất Bất, tìm kiếm sự ấm áp và an ủi ở nơi em.

Còn một việc nữa, là chia tay với Bất Bất, cũng không được gặp em một lần cuối cùng, cả một câu oán trách cũng không có cơ hội để nói.

Việc cuối cùng, có lẽ là muốn nói với Lông Mi một chuyện, nhưng mãi vẫn không thể mở miệng nói với em.

Nghĩ lại những gì mình coi là việc hối hận trong đời, thực ra cũng chỉ có thế, ngược lại còn cảm thấy thoải mái. Nếu gánh nặng của cuộc đời chỉ có vậy, tôi hoàn toàn có thể sống thoải mái hơn rất nhiều, không cần phải nghĩ ngợi mông lung làm gì nữa.

Rời hang Mạc Coa, chúng tôi lại đi Ngọc Môn Quan, Dương Quan, cuối cùng thì đến thành phố ma quỷ Ya Dan.

Trời đã gần tối, tôi quyết định dựng lều ngủ ngoài trời. Bên dưới vách núi cạnh đó là những bức tượng động vật, tượng đầu người bị gió bào mòn làm cho hình dạng trở nên hết sức kỳ quái, nhiều nhất là lầu tháp, tương thành. Tôi và Mũ Bò đều không khỏi thầm sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên vĩ đại.

Chợt nhớ tới bức Guernica của Picasso, một bức danh họa được sáng tác để kháng nghị lại quyết định phá hủy thành cổ Guernica. Có lẽ bởi vì ý nghĩa của cả hai đều nằm ở phá hoại và hủy diệt? Guernica là sự phá hoại và hủy diệt dã man của con người với văn minh, Ya Dan lại là sự hủy hoại vô tình của thời  gian với mặt đất. Hủy diệt xét về một ý nghĩa nào đó thì chính là sáng tạo. Ví dụ như hủy diệt thành phố cổ Pompeii, ngược lại tạo ra một cơ hội cho con người tìm hiểu lịch sử. Có lẽ tình cảm cũng vậy, biết đâu sự hủy diệt của tình cảm cũ, sẽ mang đến một cơ hội cho tình cảm mới nảy mầm?

Tại sao chuyện gì cũng có thể làm tôi liên tưởng đến cái thứ được gọi là tình cảm đó vậy?

Thật mệt mỏi.

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi chạy thẳng tới Liễu Viên.

Chiếc moto ba bánh không biết mệt mỏi cắt ngang sa mạc Gobi nóng bỏng.

Nghe lại mấy bài nhạc Country cũ như “Tie a Yellow Ribbon Round the Old Oak Tree”, “Take me home Country road”, cảm nhận sâu sắc phong thổ nhân tình miền Tây đất nước.

Mũ Bò gác chiếc ủng dài của mình lên thùng xe. Hôm nay cô ta mặc một chiếc váy bò rất ngắn, tà váy tung bay theo gió, làm đám lái xe chạy qua đều tròn mắt ra nhìn, thi thoảng lại vang lên tiếng huýt sáo cợt nhả. Mũ Bò cũng huýt sáo đáp lại.

- An ủi nhãn cầu của đám lái xe hả?

Tôi hỏi đùa.

- Ừ. Thực ra bọn họ rất vất vả, cho họ thưởng thức một chút cũng không sao.

Mũ Bò nở một nụ cười giả tạo.

- Xem “Sắc Tình Sa Mạc” chưa?

- Có gì không? Đàn ông trong sa mạc cưỡng dâm đàn bà con gái hả?

- Ngược lại ấy chứ. Đàn ông trong sa mạc còn cưỡng dâm cả đàn ông nữa cơ!

Phong cảnh dọc đường làm tôi say mê nhìn ngắm.

Những mạch núi dài kéo dài không dứt chạy hai bên đường quốc lộ. Dõi mắt nhìn ra xa, ngoài đá ra thì không thấy gì hết, ánh mặt trời gay gắt chiếu xuống mặt đá phản xạ ra những tia sáng rực rỡ, tựa như vầng hào quang thắngợi trong cuộc chiến tranh đoạt không gian sinh tồn với màu xanh của thực vật? Đá ở đây có màu xám hay xám đen nhưng xe đi qua một nơi gọi là Tây Hồ trấn, đá lại biến thành màu đen tuyền, trông rất thần bí và khủng bố. Hai bên đường lúc nào cũng có thể thấy những bức tường đổ nát, và những cây cỏ lạc đà với sức sống mạnh mẽ đang ngoan cường chống lại sự khắc nghiệt của sa mạc. Tôi không khỏi thầm thở dài cảm thán trước nhiều loài thực vật còn chưa biết tên trong sa mạc đang dùng thân thể mình để ca ngợi sự sống, châm chọc tử thần chỉ còn cách mình trong gang tấc. Chợt có cảm giác hổ thẹn.

Trên con đường trải nhựa thẳng tắp, thấp thoáng xuất hiện một bóng người.

Trời nóng bức. Măt đường bốc lên một luồng khí nóng, nhìn từ xa, trông như một đầm nước, còn người kia thì đang đung đưa đi trên mặt nước. Lái xe lại gần. Là một người đàn ông, mặc quần áo bò, lưng đeo balô to nhưng bước đi vẫn rất nhanh nhẹn dứt khoát.

“Trông có giống Brad Pitt trong phim “Thelma & Louise” không? Cho người ta đi nhờ một đoạn nhé?”

Mũ Bò nhìn người đàn ông lạ, cảm thấy rất hứng thú.

Nhìn vẻ mặt đầy hi vọng của Mũ Bò, tôi đành gật đầu, cho xe giảm giần tốc độ, rồi dừng lại cạnh người đàn ông kia.

“Này! Đi đâu đấy?”

Mũ Bò vươn người ra hét lên.

Người đàn ông kia dừng bước nhìn sang phía chúng tôi, rồi ném bịch chiếc ba lô xiống đất, làm cát bay tung tóe.

“Ca Thập”

Người đàn ông lấy tay che mắt, nhìn về phía trước.

“Du lịch à?”

“Không, đi khảo cổ.”

“Khảo cổ? ”

Mũ Bò nghiêng đầu nhìn tôi, cười thích thú.

“Không phải chuyên nghiệp, chỉ là nhà khảo cổ nghiệp dư thôi, chơi cho vui ấy mà!”

Anh ta khiêm tốn nói.

“Anh đi bộ thế này à?”

“Dọc đường cũng có bắt xe đi nhờ, nhưng đoạn này không có xe nào, đành đi bộ cho xong.”

Người đàn ông hình như đã lâu chưa được uống nước, khóe miệng khô cong, giọng nói khàn khàn, vừa nói vừa không ngừng nuốt nước miếng.

Mũ Bò lấy cái bình nhỏ đựng Whiskey của tôi đưa cho đối phương. Người đàn ông bán tín bán nghi nhận lấy, thử một ngụm nhỏ, liếm liếm mép, nhìn chúng tôi cười cười rồi lại làm thêm mấy ngụm nữa. Điệu bộ lúc uống rượu của người đàn ông rất thoải mái tự nhiên, làm Mũ Bò nhìn đến ngây cả người ra. Thực ra, những động tác hay ánh mắt tưởng chừng như rất vô ý của người khác giới lại là thứ vũ khí hiệu quả nhất khiến cho đối phương rung động.

Mũ Bò lấy cái bình nhỏ đựng Whiskey của tôi đưa cho đối phương. Người đàn ông bán tín bán nghi nhận lấy, thử một ngụm nhỏ, liếm liếm mép, nhìn chúng tôi cười cười rồi lại làm thêm mấy ngụm nữa. Điệu bộ lúc uống rượu của người đàn ông rất thoải mái tự nhiên, làm Mũ Bò nhìn đến ngây cả người ra. Thực ra, những động tác hay ánh mắt tưởng chừng như rất vô ý của người khác giới lại là thứ vũ khí hiệu quả nhất khiến cho đối phương rung động.

Người đàn ông chừng ba bốn mươi tuổi, râu ria xồm xoàm, trên mặt đầy những mụn là mụn, có lẽ hậu quả của việc phơi nắm lâu ngày. Tóc anh ta rất dài, bẩn thỉu và xù lên như một chiếc kẹo bông. Anh ta mặc một chiếc sơ mi kẻ, tay áo xắn lên tận bắp tay, quần bò rách lỗ chỗ. Mặt mũi thì không thể nào so sánh với Brad Pitt, nhưng so với Travis trong “Paris, Texas” thì chắc cũng không kém là mấy.

Chúng tôi cho nhà khảo cổ nghiệp dư lên xe, tiếp tục hành trình đi về phía trước.

Anh ta tốt nghiệp khoa lịch sử của một trường đại học danh tiếng từ rất sớm, được phân bổ về phòng tuyên truyền của một cơ quan nhà nước, công việc nhàm chán đến phát ngấy, bèn dứt khoát thôi việc ra chợ đêm bày sạp hàng buôn bán. Anh ta chuyên bán mấy thứ đĩa của Đặng Lệ Quân hay Lưu Văn Chính, gặp đúng giai đoạn mọi người đổ xô đi mua nên cũng kiếm được chút ít. Thế là bắt đầu đi khắp các khu di chỉ trên toàn quốc, chẳng nghiên cứu được gì mà tiền thì tiêu hết sạch, đành phải về tiếp tục đi buôn. Lần này anh ta chuyên bán mấy thứ quần áo có in chữ “đang bận, đừng làm phiền” … lại gặp đúng thời vụ, kiếm được một khoản kha khá, vậy là lại lên đường đi nghiên cứu khảo cổ … cứ lặp đi lặp lại như vậy, lưu lạc tới tận bây giờ.

Mũ Bò say mê lắng nghe anh ta kể chuyện, rồi hào hứng nói theo. Mặt đường gập ghềnh, cô nàng liền dứt khoát ngửa đầu gối lên người anh chàng phía sau, dáng vẻ rất thân mật. Tôi mừng thay cho họ. Trên sa mạc mênh mông gặp được người tình đầu ý hợp như vậy thật không dễ, cần phải trân trọng và hưởng thụ

Chúng tôi tới Liễu Viên vào buổi chiều.

Chặng đường dài vất vả cộng với quá tải, chiếc xe ba bánh khò khè một tiếng rồi dừng xịch lại, không làm cách nổ máy đi tiếp được. Tôi kiếm điện thoại gọi về cho người bạn ở Gia Du Quan, xin lỗi rối rít, rồi đẩy xe đến tiệm sửa xe mà anh ta cho địa chỉ. Ông thợ cả cẩn thận kiểm tra toàn bộ xe, rồi nói phải ba bốn ngày mới sửa xong. Tôi đành để lại tiền, rồi tìm cách khác lên đường.

Ba người ngồi bên vệ đường, rầu rĩ vì không biết làm cách nào đến được Thổ Lỗ Phồn.

Khó khăn lắm chúng tôi mới bắt được một chiếc xe hàng lớn, sau khi mặc cả xong giá tiền, cả ba liền trèo lên xe. Tôi ngồi ở thùng xe phía sau, để hai người bọn Mũ Bò ngồi trên mà tiếp tục thân mật. Xe đi qua hẻm núi Tinh Tinh, rời khỏi Cam Túc, tiến vào địa phận Tân Cương. Đêm xuống, nhiệt độ trên sa mạc giảm xuống nhanh chóng, toàn thân tôi lạnh cóng, thùng xe thì trống rỗng, chỉ có mấy tấm vải bạt rách nát, đành vơ vào quấn quanh mình cho đỡ rét. Cảnh vật ban đêm thật buồn chán, nhưng tôi sợ lạnh nên không dám ngủ, đành ngồi đần người ra ngắm sao trên trời, nghĩ ngợi lung tung, không hiểu sao lại nghĩ đến chiếc kính thiên văn của Lông Mi. Lúc tôi sắp bị lạnh cóng lại thì xe hàng cuối cùng cũng chịu dừng lại trước cửa một nhà trọ ven đường.

Ngôi nhà này rất sơ sài. Tường bao đều dùng đá chát xi măng đắp thành, nóc nhà là mấy thanh gỗ thô sần sùi gối lại với nhau, bên trên trải một lớp cỏ lác thật dày, thân cỏ rất cứng. Giữa nhà còn có chiếc cột gỗ sần sùi, to như cái chậu để đỡ cho nóc nhà.

Chủ quán đốt lửa, tôi phải ngồi sưởi một lúc lâu mới thấy ấm áp trở lại.

Đồ ăn rất phong phú: mấy chiếc bánh nướng, một chậu cơm bốc, bánh tháp, thịt bò xào khoai tây cà chua, mì Tân Cương. Chúng tôi ăn ngấu nghiến như hổ đói, chỉ một lát đã tiêu diệt sạch sẽ cả bàn thức ăn đầy ự. Ăn xong, chủ quán dẫn chúng tôi về phòng ngủ. Giường ghép kiểu phía Bắc, bên dưới xếp đá, rồi phủ thêm một lớp cỏ, trải thảm lên trên vậy là thành giường. Ông chủ để lại mấy người đàn ông chúng tôi trong phòng rồi dẫn Mũ Bò qua phòng dành cho nữ. Được một lát thì chợt nghe có tiếng kêu thảm thiết vang lên. Mũ Bò chạy vụt ra ôm chặt lấy anh chàng khảo cổ, sắc mặt trắng bệch cắt không ra giọt máu. Mấy người cùng chạy qua xem, thì thấy ở góc giường có một lỗ lớn, một con chuột to tướng thò đầu ra nhìn chúng tôi, rồi quẫy đuôi một cái, lừ lừ chui vào lỗ. Cô nàng sống chết thế nào cũng không dám ngủ. Anh chàng khảo cổ đành dẫn cô nàng ra ngoài cắm trại, còn tôi và tài xế thì ngủ trong phòng.

Sau khi trừ đi nạn chuột, và cả những con côn trùng nhỏ lương thiện không cắn người nấp trong tấm nệm cỏ, căn phòng và chiếc giường lại tiếp tục thực hiện công năng của nó. Không  gian thô lậu sơ sài mang theo vẻ thần bí lạ thường, làm tôi chợt nhớ đến bài hát “Hotel California”. Một lúc sau thì tiếng ngáy khò khè như lợn rống của tay lái xe vang lên. Tâm cơ máy động, tôi bèn khẽ huýt sáo theo điệu nhạc “Hotel California”, tay tài xế liền yên lặng trở lại một cách thần kỳ. Huýt sáo được hết bài thì miệng đã mỏi nhừ, không khép lại được. Nằm mãi mà chẳng thấy buồn ngủ, tôi bèn lấy cuốn “Con người và mặt đất” của Antonie de saintex puperyra, bật ngọn đèn nhỏ ở đầu giường ra đọc. Trong sách có một câu như thế này:

“Kiến thức mà mặt đất dạy chúng ta còn sâu rộng hơn bất cứ sách vở nào.”

Không nén nổi cảm xúc dâng trào trong lòng, tôi đứng dậy mặc quần áo, đi ra ngoài.

Sa mạc Go bi về đêm hoang vắng tiêu điều còn hơn ban ngày. Chỉ có những ngôi sao đang vô tư dâng hiến chút ánh sáng nhỏ nhoi chỉ đủ để mang lại tín niệm cho con người, nhưng lại chẳng hề có chút ý nghĩa gì với trái đất này cả!

Chợt có một ý nghĩ đên rồ, muốn đi, đi mãi về phía đó.

Có điều lý trí tôi vẫn còn đủ tỉnh táo. Đi về phòng, bật máy nghe nhạc lên nghe mấy bài của Egima, rồi chìm vào giấc ngủ.

Đối với tôi, rốt cuộc ai mới là “mặt đất” đây?

Buổi trưa hôm đó, xe hàng đến một thị trấn nhỏ hoang vu, dừng lại để thêm nước.

Thị trấn này rất nhỏ, chỉ có mấy gian nhà đá, nằm rải rác trên sa mạc mênh mông, lưa thưa lác thác, nhìn có cảm giác như là các núi lửa trên bề mặt mặt trăng vậy. Ở sa mạc miền Tây này giờ chỉ còn rất ít những thị trấn như vậy.

Tay lái xe xách thùng nước nhảy xuống trước. Chúng tôi cũng xuống theo, vươn tay vươn chân cho giãn gân cốt, rồi đi dạo một vòng xung quanh thị trấn. Thị trấn này có một quán ăn nhỏ, bên trong có một ông lão người Duy cởi trần, tay phe phẩy quạt, mắt lim dim gật gù. Gần đó là một xưởng sửa xe, bác thợ cả đội cái mũ nhỏ của người tộc Duy đang lắp lốp xe, thi thoảng lại ngước mắt lên nhìn chúng tôi. Cạnh xưởng xe là một quán trọ nhỏ, một người đàn bà đầu đội khăn thêu đang bế con ngồi trước cửa, ánh mắt thờ ơ tuyệt vọng. Bên cạnh bàn bi a cách đó không xa lắm, có hai thanh niên người Duy đang ngắm nghía đường cơ.

Một ông già người Duy đang ngồi xếp bằng trên chiếc ghế dài ven đường, nắm mắt chơi đàn Donbura, âm thanh cót ca cót két khó nghe truyền đi khắp thị trấn nhỏ. Xung quanh cát bụi bay tứ tung, rơi cả vào cái bát to để bên cạnh ông già. Tôi ngồi xổm cạnh đó nghe ông chơi đàn, còn Mũ Bò thì kéo anh chàng khảo cổ đi ra chỗ bàn bi a.

Ông già đàn một lúc rồi dừng lại lấy thuốc ra hút, cầm bát nước lên, thổi bay cát bụi bên nổi bên trên đi, rồi cẩn thận uống mấy ngụm, sau đó đặt bát xuống, súc súc miệng, đưa mắt nhìn tôi cười cười, đưa cây đàn Donbura cho tôi. Tôi đón lấy, thử chơi như chơi đàn ghi ta, định đánh một bài “A La Mộc Hãn” nhưng quả thực đàn ghi ta và Donbura là hai loại nhạc cụ hoàn toàn khác nhau, muốn điều âm cũng không biết làm thế nào. Tôi đành trả lại đàn cho ông già. Không ngờ ông già như đọc được ý nghĩ của tôi, bật ngón tay chơi ngay bài “A La Mộc Hãn”, tất nhiên là vẫn cực kỳ khó nghe. Ông già nhìn tôi bật cười khanh khách, tôi cũng cười cười đáp lại, vừa cười vừa đếm xem trong miệng ông còn lại mấy chiếc răng.

Đứng dậy sang chỗ bàn bi a.

Anh chàng khảo cổ đưa cây cơ cho tôi. Mặt bàn mấp mô, rất khó đánh. Tôi cúi sát người chọc một gậy. Cậu thanh niên tộc Duy đánh một quả bi màu vào lỗ, nhìn tôi cười cười, dáng vẻ rất thật thà, rồi lại đánh một cơ nữa, bi không lọt lỗ. Đột nhiên một trận gió nổi lên làm cát bụi bay tứ tán. Tôi cầm lấy cây cơ, cúi người đánh tọt một quả bi khoang vào lỗ, rồi lại đánh thêm một quả nữa lọt lỗ, điều chỉnh hô hấp, đẩy quả bi khó nhất ở góc bàn vào lỗ, bi màu trắng đập vào mép bàn rồi đụng vào quả bi khoang cuối cùng, đẩy nó đến sát miệng lỗ. Tôi mỉm cười đưa cây cơ cho Mũ Bò. Cô nàng ngoáy mông đi lại gần bàn bi a, động tác rất gợi tình, nhẹ nhàng chọc nhẹ đầu cơ vào bi trắng, đẩy quả bi khoang cuối cùng chầm chậm rơi vào lỗ. Mũ Bò ngoáy ngoáy mông một cách khoa trương, làm mọi người ở đó đều cười ồ lên.

Tôi với anh chàng khảo cổ ngồi cạnh đó, lặng lẽ ngắm Mũ Bò và hai cậu thanh niên người Duy chơi bi a. Hai cậu chàng mặc áo sơ mi hoa văn, đội chiếc mũ nhỏ của người dân tộc, đi giày trắng, khiêm tốn hồn hậu, thậm chí thật thà đến khiến chúng tôi cảm thấy hơi đau lòng.

- Tuổi trẻ thật tuyệt, đáng tiếc lại bị chôn vùi ở chốn sa mạc hoang vu này.

Anh chàng khảo cổ thở dài nói.

- Cũng chưa chắc, có lẽ họ đang than vãn cho tuổi trẻ bị chôn vùi chốn thành thị ồn ào náo nhiệt của chúng ta cũng nên! Hoàn cảnh khác nhau thì quan điểm sống cũng khác nhau mà!

Tôi nói.

- Hoàn cảnh khác nhau thì quan điểm sống cũng khác nhau? Câu nói này có ý nghĩa đấy!

Anh ta vỗ nhẹ lên vai tôi, cười cười.

Có lẽ đã lâu lắm rồi hai cậu thanh niên người Duy chưa nhìn thấy cô gái nào ăn mặc sexy như Mũ Bò, thỉnh thoảng lại thấy hai cậu chàng len lén nhìn trộm cặp giò trắng muốt của cô nàng. Mũ Bò cũng nhận ra, bèn dứt khoát bò cả người lên bàn để ngắm đường cơ, để hở cả quần trong ra ngoài.

- Đấy gọi là dùng sức của tuổi trẻ để góp phần xây dựng biên cương!

Lúc trèo lên xe, Mũ Bò hào hứng giải thích.

Tôi chợt nhớ lại cảnh xe tăng Liên Xô tiến vào Tiệp Khắc, các cô gái Praha đều mặc váy ngắn đến độ làm người ta phát hãi, chặn trước mũi xe tăng, ôm lấy những người đàn ông Tiệp chưa bao giờ gặp mặt, vén váy lên hôn nhau cuồng nhiệt, cố ý kích thích sự ham muốn của các chiến sĩ Liên Xô, làm cho họ mất đi ý chí chiến đấu.

Tình dục là một loại vũ khí.

Đáng tiếc là ở cái thành phố nơi tôi đang sống kia, thứ vũ khí đó đã bị lợi dụng một cách quá đà.

Chẳng mấy chốc, thị trấn nhỏ cùng tiếng đàn Donbura thân thiết mà khó nghe của ông già và tuổi xuân của hai chàng thanh niên người Duy.

Chiều tối hôm ấy, chúng tôi đến Thổ Lỗ Phồn.

Lái xe phải tiếp tục lên đường đến Karamay, nhiệt tình ôm chặt chúng tôi chào tạm biệt. Tôi, Mũ Bò và anh chàng khảo cổ đổi xe đi tới thành cổ Cao Xương. Những chiếc xe lừa trang trí sặc sỡ chạy qua chạy lại trong khu phong cảnh, trông rất tức cười. Chúng tôi ngồi ở nơi Đường Huyền Trang giảng kinh một lúc, cuối cùng cũng chịu không nổi sự ồn ào náo nhiệt, bèn lặng lẽ bỏ đi. Tìm đến thành cổ Giao Hà bên hai dòng sông. Nơi được bảo tồn khá hoàn hảo, ít nhất là cũng không có xe lừa. Ba người chúng tôi đi một vòng xem hết quần thể tháp, khu dân cư, phường thủ công, chùa chiền, giếng cổ, phố xá, rồi trốn nhân viên quản lý, lén lút dựng trại ngay trong thành cổ.

Dưới ánh trăng, chúng tôi ngồi dựa lưng vào bức tường đất đã có mấy ngàn năm lịch sử, cùng uống whiskey, nói chuyện quá khứ, bàn chuyện tương lai.

Tôi với anh chàng khảo cổ nói chuyện về mấy phát hiện khảo cổ có giá trị nhất, và ảnh hưởng của chúng với văn hóa hiện nay. Đứng đầu đương nhiên là Pompeii và Herculaneum . Hai thành phố cổ ở tận Italy cũng có lịch sử vĩ đại như thành cổ Giao Hà nơi chúng tôi đang ngồi đây, khác biệt chỉ là phong cách kiến trúc và vật liệu xây dựng, cùng với đặc điểm chính trị văn hóa. La Mã và nhà Hán khi ấy đều phát triển rực rỡ như nhau. La Mã thì thống trị toàn bộ vùng Địa Trung Hải, còn nhà Hán thì khống chế cả vùng Đông Á, mỗi bên hùng cứ một phương. Thậm chí so với La Mã, triều nhà Hán còn ổn định hơn rất nhiều, theo lý thông thường phải phát triển nhanh hơn mới đúng. Nhưng sự thực thì không phải vậy. Từ thời Hi Lạp cổ đại đến thời La Mã, người châu Âu đều chỉ quan tâm đến một thứ là “dân chủ”, còn ở Trung Quốc xã xôi, con người mãi cũng chỉ thảo luận một vấn đề duy nhất, đó là “hoàng quyền”, thứ này đã bị coi trọng quá mức đến tận hai ngàn năm sau. Có lẽ căn nguyên lịch sử lâu đời nhất tạo nên khoảng cách to lớn giữa châu Á và phương Tây chính là ở đây.

- Ước mơ của tôi là phát hiện được một di chỉ đẹp như thành cổ Lâu Lan vậy.

Anh chàng khảo cổ nói.

- Tôi thì muốn tìm một người để yêu.

Có lẽ uống hơi quá chén, nên tôi đã lần đầu nói ra những câu như vậy, thầm cảm thấy chua chát trong lòng! Len lén hé mắt nhìn Mũ Bò và anh chàng khảo cổ, cũng may mà họ không để ý tôi nói gì.

- Tôi muốn tìm một người có thể điều khiển được tôi, bởi vì tôi là một con ngựa hoang.

Mũ Bò vừa nói vừa ngân nga một bài hát của Trịnh Quân, lời ca cũng từa tựa như vậy.

Tôi thấy rất thấm thía.

Có lẽ tình yêu, chính là quá trình học cách điều khiển một con ngựa hoang?

Hay là bị điều khiển?

Sáng hôm sau, tôi tiễn hai người bạn mới quen lên xe đường dài đi Korla, rồi một mình đi tới Urumqi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.